Thứ Năm, 10 tháng 11, 2011



KIM CƯƠNG THƯƠNG SƯ THÍCH THIỆN TÂM
HIỆU: LIÊN DỤ -TỰ: VÔ NHẤT ĐẠI SƯ




Cũng biết chút đỉnh.
(Đây là duyên khởi để cho Cố Hòa Thượng biết rõ nơi “Tân trụ xứ” của mình …)
- Và bây giờ, ngài đã biết được Đại Ninh cùng Phú An nằm ở nơi nào trên bản đồ Việt Nam rồi. (Đúng như ngài đã nghĩ là Phật, Bồ Tát sẽ khiến có người tới mách giúp, chỉ chỗ cho mình)
(Sau đó, những việc như hỏi kỹ địa điểm, đường đi nước bước, đến xem cuộc đất v.v… Là lẽ đương nhiên cần phái tiến hành – xin miễn đề cập tới cho đỡ dài dòng và tinh giảm hơi sức)

Cuối tháng 12/1967, ngài đến Viện Hóa Đạo nơi chùa Ấn Quang, đảnh lễ sư phụ là Hòa Thượng Hội chủ THÍCH THIỆN HÒA (Phó Tăng Thống) trình bày các lý do sau đây:
- Chánh trị đã xâm nhập vào Phật Học Viện (do mấy thầy lớn mang vào).
- Chư học Tăng không tuân theo giáo quy của nhà trường.
- Mấy thầy đồng song (bạn cùng tu) bất chấp sự thanh tịnh cần phải có của Phật Học Viện, thường xuyên tới lui, vận động phe phái chánh trị, sách động biểu tình v.v…
- Và như vậy là không thích hợp với sở nguyện (chuyên tu) của mình.
- Ơn Thầy Tổ, Giáo hội và đàn na tín thí cũng đáp đền xong. Nay đã đến lúc cần phải lo phần tịnh tu giải thoát... cùng một số lý do khác (như sức khỏe yếu kém v.v…).
Xin được từ chức Đốc giáo Phật Học Viện Huệ Nghiêm, giao trách nhiệm lại cho đệ I phụ tá là Thượng tọa THÍCH BỬU HUỆ thay thế.
Ban đầu, Hòa Thượng Hội chủ không chấp nhận, nhưng cuối cùng, đối đế quá không biết làm sao hơn nên buộc lòng phải chịu để cho ngài từ chức với điều kiện là phải từ từ chớ không được gấp quá Hòa Thượng dạy:
- Ta chấp nhận cho con từ chức ẩn tu theo sở nguyện nhưng chưa liền bây giờ mà phải chờ qua đến năm 1968 mới được đi.
Vì muốn cho sư phụ vui lòng nên ngài mới hoãn lại việc ra đi của mình và bàn giao từ từ lại cho TT. Bửu Huệ. Mãi cho đến giữa năm 1968 mới hoàn tất được hết mọi chuyện.
Trong thời gian này, thỉnh thoảng thì ngài cũng có đi đi, về về giữa Sàigòn (Huệ Nghiêm) và Đại Ninh, xúc tiến việc mua đất và mướn người Thượng(*) phát quang cây cối chung quanh vùng cho trống trải để chuẩn bị cất tịnh thất ẩn tu.
Ghi chú:
(*) Vì vùng đất mà cố Hòa thượng chọn để ẩn tu nằm cách quốc lộ khoảng 3 cây số, cạnh sông Đại Ninh của đập thủy điện Đa Nhim, nơi đây rất ít có người Kinh (Việt) ở lắm, đa số là dân sắc tộc thiểu số cư ngụ (95% cư dân nơi đây là người Thượng).
Những lúc ngài bận đi vắng như thế thì tịnh thất của ngài tại Phật Học viện Huệ Nghiêm giao cho một học tăng thị giả trông coi, (tịnh thất chỉ là một am nhỏ, lợp bằng lá dừa nước, đơn sơ và đạm bạc) quét dọn xem sóc mỗi ngày.
Có một vài chuyện cũng rất lạ lùng (và huyền bí) ở nơi tịnh thất của ngài như sau: (Thuật lại theo lời kể của một số học tăng tại Huệ Nghiêm).
- Nguyên lần đó, sau khi quét dọn bên trong tịnh thất của ngài xong rồi thì vị học tăng ấy cảm thấy hơi mệt mỏi nên khởi ra ý nghĩ là muốn tìm chỗ (đâu đó) để ngồi dựa lưng cho thoải mái và “giãn gân cốt”. Trong khi đi ngang qua bàn viết của ngài, thầy ấy tò mò nhìn vào thì thấy trên bàn đang để dở một quyển kinh (bằng chữ Nho) cùng với xấp bản thảo kinh mà ngài đang phiên dịch nên đứng lại xem (cho biết).
Thấy hay hay, và lại vì cũng đang mệt và muốn tìm chỗ ngồi để dựa lưng một chút, thôi thì sẵn có bureau và ghế đây, ta hãy cứ (tạm làm thượng tọa), ngồi vào khỏe và xem kinh luôn cho nó được “nhứt cử lưỡng tiện” (còn hơn là đứng hoài mỏi chân lắm!) Chắc có lẽ vì nghĩ như vậy nên thầy mới “vui vẻ”, khỏe khoắn “bình tọa” ngay trên ghế “thượng tọa” và cầm lấy xấp bản thảo kinh đang dịch lên xem. Nhưng vừa mới ngồi xuống xong chưa đầy một phút đồng hồ sau thì thầy bỗng chợt có cảm giác dường như chóng mặt, nên cố gắng định thần lại, thì thấy mơ hồ có một bóng người cao lớn đi đến đứng bên cạnh bàn viết, lấy tay chỉ vào người này nói với giọng giận dữ:
- Người hãy đứng lên cho mau, sao dám ngồi nơi bảo tọa của Đại Đức Pháp Sư – đoạn lấy tay xô một cái, khiến vị học tăng này té nhào xuống đất, làm cho thầy sợ quá, vội vã ngồi dậy và chạy ra ngoài.
Đây là một chuyện.
Và thêm một lần nữa, đêm đó vị học tăng khác có trách nhiệm trông nom tịnh thất của ngài, bỗng nhiên khởi lên ý nghĩ là tối nay sẽ ngủ lại trong thất của cố Hòa thượng (có lẽ thầy này cũng muốn thử xem ta có đủ “đạo lực” để nằm trên giường ngủ của “ông già” hay không. Bạn ta hôm trước mới vừa ngồi vào ghế của “ổng” thì bị xô té xuống, còn ta thì đêm nay sẽ nằm ngủ ở trên giường của “ổng” để thử xem có chuyện gì xảy ra không cho biết. Nếu mà có “cái gì đó” xảy ra cho ta thì ta sẽ phục “ông già” tu cao, còn nếu như mà ta vẫn thẳng cẳng ngủ khò một giấc cho đến sáng hôm sau thì té ra là bạn ta “nói xạo”).
Chắc có lẽ vì nghĩ như thế nên tối hôm đó thầy này không trở về phòng của mình mà lại leo lên trên giường của “ông già”, định bụng là sẽ “đánh một giấc” thẳng thừng cho khỏe. Nào dè đâu vừa nằm xuống, mới nhắm mắt thiu thiu thì thầy bỗng mơ màng thấy có một người đi đến đứng bên cạnh đầu giường, nhìn thấy một lúc rồi tỏ sắc giận mà bảo:
- Người là ai, sao dám cả gan nằm ngủ nơi đây. Hãy dậy và đi xuống ngay lập tức. Nói xong thì vị này đi ra ngoài phía bàn dịch kinh (Hộ pháp). Thầy này lúc đó phần thì buồn ngủ nên làm biếng dậy, phần thì nghĩ rằng: ta dây cũng “đường đường tăng tướng”, Đại Đức như ai vậy, ta không sợ đâu, cứ nằm lỳ ở đây thử xem đó làm gì được ta cho biết (kể ra thì thầy này cũng can trường dữ).
Đoạn thầy nằm xuống luôn chớ không chịu đi xuống theo như lời bảo khi nãy. Khoảng chừng 5 –10 phút sau, thầy thấy có 5, 6 người khác nữa đi đến, đứng nơi đầu nằm, vị đứng giữa hình như là cấp chỉ huy, mặc áo vàng, gương mặt oai vũ và có vẻ giận dữ nói:
- Đã bảo rồi mà ngươi vẫn còn chưa chịu xuống hay sao? Nói xong lấy tay khoác một cái làm cho thầy này có cảm giác bị lạnh buốt phía sau lưng, một sức lạnh thấu xương xuyên qua da thịt, tựa như có bàn tay khổng lồ bằng nước đá bợ lưng của thầy lên cao và hất xuống đất, khiến thầy bị rét run, lập cập nói không ra tiếng, la ú ớ một hồi rồi ngồi bật dậy, vội vã chạy ra khỏi phòng, mặt mày tái mét lên vì sợ.
Hai câu chuyện này được kể ra làm cho các học tăng trong Phật Học Viện (thời đó) ai cũng đều lắc đầu, le lưỡi mà nói rằng: “Ông già” của mình tu cao ác (ôn) đến nỗi chỗ ngồi và chỗ nằm của ổng mà cũng có “long thần, hộ pháp” coi giữ nữa.
XA CHỐN THỊ THÀNH VỀ A LAN NHÃ
(Rời thành phố về nơi ẩn tu)
Khoảng giữa năm 1968, việc xây cất Hương Quang tịnh thất ở Phú An đã xong, ngài chánh thức dâng đơn từ chức lên Viện Hóa Đạo, mặc dầu rất thương tiếc cho một người đệ tử vừa có tài, vừa có đức, tuổi còn nhỏ mà đã sớm ẩn tu (năm đó ngài được 43 tuổi) nhưng biết rằng không thể nào lưu giữ con người đại tâm, đại bi, đại nguyện này lại được cả, bất đắc dĩ Hòa thượng Hội Chủ kiêm Phó Tăng Thống và Viện Trưởng Viện Hóa Đạo Ấn Quang THÍCH THIỆN HÒA bắt buộc phải chấp đơn để cho ngài được thành toàn chí nguyện (mà trong lòng buồn lắm).
Chức vụ Đốc giáo Phật học viện Huệ Nghiêm được bàn giao lại cho Thượng Tọa đệ nhất phụ tá là Thượng Tọa Thích Bửu Huệ, và riêng về phần ngài, thêm một lần nữa (và cũng là lần cuối cùng) lên đường nhập thất ẩn tu vô thời hạn nơi vùng rừng núi cao nguyên của miền Trung nước Việt:
- Tổng Đại Ninh, thôn Phú An, xã Phú Hội, quận Đức Trọng, tỉnh Lâm Đồng (Đà Lạt). Một địa danh hoàn toàn xa lạ đối với tất cả chư Tăng, Ni, Phật tử nơi chốn thị thành.
(Đến đây Bảo Đăng tôi xin tạm dừng bút đôi phút để bình luận về việc này, một việc có thể gọi là “phi thường” mà xem như 100% chư Tăng đương thời không một ai dám nghĩ đến  huống chi là thực hành!
- Ngay như cố Hòa thượng đây là một đại tăng, tuổi đời còn nhỏ (43) tài cao, đức trọng có danh chức và địa vị lớn trong giáo hội, làm Đốc giáo một Phật học viện nổi danh, Phật tử đông nhiều, ai nấy cũng đều cung kính, quý trọng … ấy vậy mà ngài vẫn không đoái tưởng đến, vứt bỏ hết tất cả chẳng chút luyến lưu, một thân, một bóng bơ vơ về ẩn tu nơi miền rừng xa, núi vắng, giữ đời sống đạm bạc, an vui, tuyệt dấu thị thành.
Nếu không phải là một bậc đại căn, đại lực, hỏi mấy ai dám “cả gan” đương nổi việc này.)
Trong Kinh “Đại Bảo Tích chương Pháp Hội Phú Lâu Na, phẩm Bồ Tát hanh”, Phật có dạy rằng:... Lại này Phú Lâu Na, Đại Bồ tát có thể rời lìa ngũ dục, thường thích xuất gia, tâm thuận xuất gia, xu hướng xuất gia, chẳng ham ngũ dục. Khi được xuất gia rồi thì rời bỏ chốn ồn náo, ở xa nơi núi rừng, chẳng mất pháp lành. Bồ tát hay thành tựu được Pháp này thì sẽ được đầy đủ tất cả công đức.
Đức Thế Tôn muốn sáng tỏ lại nghĩa này mà nói kệ rằng:
Tâm thường thích xuất gia,
Mà hay thường xuất gia.
Ưa thích ở núi rừng,
Chỗ tăng ích công đức.
Ở tại chỗ rảnh vắng, (1)
Thì lìa ngũ dục lạc,
Nơi ấy không ồn náo,
Không mất duyên pháp lành.
Không phải bận chuyện trò,
Đến, lui, thăm viếng nhau.
Ưa rảnh rang, vắng vẻ,
Được chư phật ngợi khen.
Vì thế chư Bồ Tát.
Phải thường ở rảnh vắng.
Chớ tham ưa thành thị,
Chỗ sanh tâm lợi dưỡng.
Nếu được lợi thì mừng,
Khi mất sanh lo buồn.
Người này dầu cúng Phật,
Chẳng gọi là cúng dường.
Muốn trừ các lỗi này,
Phải thường lìa lợi dưỡng.
Nương thân nơi lan nhã,
Tu tập các pháp không …
(Vô Nhất Đại sư - Cố Hòa Thượng Đại Ninh, Thích Thiền Tâm, chính là hạng người mà Phật đã đề cập cùng nhắn nhủ đến trong phần kinh này vậy).
Ghi chú:
(1) Nơi rảnh vắng: tức là rảnh rang và vắng vẻ, còn có một tên khác nữa là A Lan Nhã.
Sau ngày Cố Hòa Thượng rời khỏi Huệ Nghiêm về ẩn tu nơi miền sơn cước Đại Ninh rồi, thì những Phật tử trước kia đã từng quen biết với ngài tại Sài Gòn và khắp cả các nơi, thảy đều mang lòng nhớ thương, hoài vọng. Riêng các hàng tứ chúng có tâm chân thật tu hành ai nấy cũng đều ngầm tiếc nuối cho một bậc đạo cao, đức trọng, đã dũng mãnh xả hết tất cả lợi danh, chùa to, Phật lớn cùng với các vinh dự hiện có của mình trong giáo hội mà quy ẩn quá sớm nơi miền đồng núi xa xôi, cam phần đạm bạc đúng theo như chí nguyện của kẻ xuất trần.
Và mọi người (Phật tử chơn chánh) cũng đều biết thêm rằng:
- Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống Nhứt đã bị mất đi một vị đại Tăng lỗi lạc, tài đức song toàn, thật tu, thật hạnh (Trong khi các vị Tăng sĩ giả tu, hoặc “mượn đạo tạo đời”, hoặc đắm mê danh lợi, hoặc nương nơi hình thức Phật giáo để làm chánh trị, mưu cầu quyền chức cá nhân, hoặc tiếp tay cho những người đối nghịch, quấy rối, xách động biểu tình, làm đảo loạn sự trị an trong nước v.v… thì vẫn còn nhan nhãn khắp nơi trong Giáo hội với các chức vụ này, kia quan trọng … mà lắc đầu, ngán ngẩm cho cả hai phương diện: Thế thái lẫn nhơn tình!
(Dạo ấy có người làm thơ than thở, nhớ tiếc cố Hòa Thượng rất nhiều, nhưng vì đã gần 30 năm trôi qua rồi nên hầu hết đều bị thất lạc. Trong hai lần về lại Việt Nam để truy tìm thêm tài liệu của cố Hòa Thượng cho quyển sách này, Bảo Đăng tôi chỉ góp nhặt được một ít đoạn thơ sau đây, nay cũng xin biên lên để mà “thêm nhớ thương” cho một vị Đại sư đã được nhiều cảm mến nhất của hầu hết Phật tử...
Chẳng hạn như:
Con chim cánh trắng bay về núi (1)
Bỏ chốn tương tranh lắm não phiền,
Xa lìa nhân thế đảo điên,
Lánh nơi tục lụy, đáo miền thần tiên...
Ghi chú:
(1) Chim cánh trắng là chim bồ câu: Đây là một loại chim được cả thế giới gọi là “chim hòa bình”. Riêng trong các bài thơ này có ý ám chỉ cho Hòa thượng là người hiền lành, không ưa tranh đấu.
Hoặc là:
Cánh trắng chim kia khuất dạng rồi,
Quân tử đau lòng khóc hởi ôi!
Trách bấy nhân tình sao đảo loạn,
(Biết đến thuở nao trùng hợp lại).
Hối nhiều cho mấy cũng đành thôi!
Và như sau đây:
Chim cánh trắng bay nhanh,
Về Đại Ninh núi xanh.
Một mình không bạn lữ,
An ẩn chốn am tranh.
Ngoảnh đầu trông ngùi ngậm,
Thương xót bạn đồng hành.
Tài danh cùng chức vị,
Mê đắm chạy vòng quanh.
Kể từ đó về sau, “con chim cánh trắng “THÍCH THIỀN TÂM” đã “cắt đứt dây chuông” rồi, (Mặc cho chú Điệp đứng bên ngoài cổng kêu khản tiếng) phần của ngài nay đã an nơi miền lan nhã, chỉ tội nghiệp cho những người còn lại, cưu lòng đắm lợi tham danh, lao nhao nơi chốn hí trường, như ý của đoạn thơ sau:
Mắt nhìn xem đã rõ, …
Lòng cắt mối tơ vương,
Mặc kẻ lao nhao chốn hí trường.
Ta lều tranh, núi biếc,
Trong bổn phận lo lường,
Nay tùy duyên thong thả,
Mai rửa bát đốt hương, (1)
Đem tâm quy hướng cõi thanh lương.
Mênh mang kìa biển nghiệp,
Đau khổ biết bao dường!
Quay đầu trông lại thấy thêm thương!
(Người bạn sen)
Ghi chú:
(1) Rửa bát: tức là rửa chén (dơ thành sạch) – ở đây dụ cái bát dơ cho cái tâm (dơ bẩn) của mình. Nên ở trong đạo Phật, nói rửa bát đây thì phải hiểu là rửa cái tâm của mình (cho nó sạch đi đặng hạp với tâm của Phật, Bồ tát, Tổ sư …)
(Đến đây, trước khi qua một chương mới, Bảo Đăng tôi xin lưu ý quý độc giả một điểm rất quan trọng về thời gian rời Sài Gòn của Cố Hòa Thượng để về Đại Ninh ẩn tu như sau:
- Đó là một sự trùng hợp ngẫu nhiên (nhưng đã có tiền định rồi) giữa các sự việc:
1. Ngài muốn rời Sài Gòn vào cuối năm 1967, nhưng ân sư của ngài là Hòa Thượng THIỆN HÒA chỉ cho phép ngài đi vào năm 1968 mà thôi.
2. Trong bài kệ tiên tri về cuộc đời của ngài do đức Chuẩn đề Bồ tát và bổn sư Phật Ấn trao cho có câu mở đầu rằng: Sáu tám lắm gian nan.
Là ý nói đến năm 1968 ngài mới bắt đầu rời Huệ Nghiêm (Sài Gòn) để ra Đại Ninh được.
3. Việc xây cất Hương Quang tịnh thất mãi cho đến năm 1968 mới xong.
4. Đến năm 1968 ngài mới được chấp đơn cho từ chức để ẩn tu.
Như thế thì ta thấy rằng:bốn, năm cái 1968 xảo hợp lẫn nhau như vậy đều là do tiền định cả. Dù ngài có muốn cải đổi hay rút ngắn thời gian lại cho sớm hơn (1967) cũng không được nữa.
PHẦN V: ĐẠI NINH, PHÚ AN
TỊNH ĐỘ ĐẠO TRÀNG
LIÊN TÔNG KHAI SƠN TỔ SƯ
(Vô Nhất Đại Sư, THÍCH THIỀN TÂM Hòa Thượng)
A. HƯƠNG QUANG TỊNH THẤT (Phú An  Đại Ninh)
Phú An là một thôn nhỏ, nằm trong Tổng Đại Ninh, thuộc xã Phú Hội, huyện Đức Trọng, tỉnh Lâm Đồng(Tuyên Đức, Đà Lạt). Dân số nơi đây (vào thời đó (1968) chỉ có chừng 50 nóc gia mà trong đó khoảng 10 nhà là người Kinh (tức là người Việt của mình số nóc gia còn lại là của người THƯỢNG (dân tộc thiểu số).
Đa số nhà người Kinh thì ở gần bên quốc lộ Đà Lạt, Sài Gòn (tức là quốc lộ 20), còn nhà (sàn) của người Thượng thì nằm sâu vào trong rừng, cách quốc lộ khoảng chừng 3, 4 cây số. Thôn này nằm trên bờ sông Đại Ninh (Còn gọi là sông Đa Nhim vì ở thượng nguồn của con sông này trên Đà Lạt – có xây dựng đập thủy điện cao thế Đa Nhim), chiều ngang của con sông rộng chừng 300 thước, chảy từ hướng Tây (của ấp) qua hướng Nam Đông Nam của vùng Đại Ninh với một dòng nước ngọt, êm đềm, hiền hòa và mang nhiều chất phù sa mầu mỡ đã làm cho đất đai của vùng này (từ lâu) trở nên vô cùng phong phú …
“Hương Quang tịnh thất” là nơi của cố Hòa Thượng Thích Thiền Tâm ẩn tu không nằm sát ngoài quốc lộ như đa số nhà của các người kinh khác trong thôn mà lại là nằm sâu bên trong, sát với khu vực của người Thượng ở, cho nên muốn vào đến chỗ trụ xứ của ngài thì phải (đi bộ) một khoảng đường rất xa mất gần cả giờ đồng hồ mới tới, ngay bên cạnh bờ sông Đại Ninh, ngôi nhà của người kinh ở gần chỗ ngài nhất cũng cách xa cả cây số (đó là nhà của đạo hữu Minh Thiện TkT).
Sách có câu: “Cọp về núi, chim về rừng”, thì người tu hành cũng phải về nơi lan nhã (Như Bồ tát Tất đạt Đa khi xưa cũng ở lan nhã tu tập suốt 6 năm dài, sau đó mới thành Phật được) Cố Hòa thượng của chúng ta đây cũng thế. Hương Quang tịnh thất là một căn thất nhỏ, lợp ngói đỏ, lớn bằng một căn nhà hai phòng ngủ (theo tiêu chuẩn Việt Nam) có hai tầng, tầng dưới để ở và làm việc (dịch kinh), tầng trên thì để thờ Phật và lễ sám.
Kể từ khi ngài về trụ tại nơi đây, ngày đêm chăm lo trì niệm, quán tưởng không bê trễ, việc hộ thất thì đã có gia đình đệ tử là Minh Thiện TkT ở gần bên đó đảm trách (trong giai đoạn đầu), đồ ăn nấu một lần thì ăn được cả tuần lễ hay hơn nữa, thí dụ như tàu hủ kho mặn, nấm rơm kho tiêu, mì căn kho xả, ớt v.v... để vào trong ve keo hoặc lon sữa Guigoz, cứ mỗi lần ăn cơm thì mở nắp lấy ra một ít. Ngày nào cũng vậy(nhưng thỉnh thoảng thì đệ tử thương tình nên cũng có mang vào cho một ít canh rau.).
Ngoài các giờ trì niệm thì ngài làm vườn như dọn dẹp, phát cỏ, đốn cây mọc quanh thất (vì là miền rừng núi nên cây cỏ rậm rạp, muỗi, vắt cũng nhiều, nếu như không phát quang thì dễ bị bệnh sốt rét vì muỗi cắn lắm. Theo lời cố Hòa thượng kể lại cho cháu là ĐĐ. Bổn sư Thích Hải Quang nghe thì mỗi chiều, khi mặt trời sắp lặn là muỗi mòng bay ra đầy rừng, phải dùng khói un lên cho nó bay bớt đi nơi khác, còn việc trì niệm thì phải giăng một cái mùng ở trước bàn Phật rồi ngồi vào trong đó mà lễ bái chớ không thì bị muỗi đốt, ngứa quá gải hoài, làm sao được nhứt tâm! Ấy vậy mà vẫn còn nghe nó bay vo vo bên ngoài nữa (ghê thiệt, chắc Bảo Đăng và quý vị không ở nổi đâu).
Mỗi lần ra ngoài làm vườn, trồng cây (ăn trái) chung quanh thất như mít, xoài v.v... thì ngài phải thay đồ tu ra, mặc vào áo quần ka ki (của lính) mà ngài gởi mua từ trên chợ Tùng Nghĩa (cách đó khoảng 9  10 cây số) và mang giày bố (cũng của lính) cho nó lâu rách và lâu mòn, mà còn có thể đỡ được gai gốc, cát sỏi của miền rừng núi nữa.
Có khi ngài cầm rựa (một thứ dao đi rừng của người Thượng lưỡi lớn, cán dài) có khi cầm cuốc, cuốc đất. Trông ngài lúc đó như là: đầu đội nón lá (buông) mình mặc áo quần làm vườn bằng vải ka ki cũ kỹ, đứng cuốc đất, trồng cây v.v… ai thấy mà chẳng đau lòng, đứt ruột... Đâu có ai ngờ rằng một bậc đại tăng tài đức song toàn, tiếng tăm lừng lẫy của Giáo hội, Đốc giáo một Phật học viện có hàng trăm Đại Đức tăng sinh, đệ tử, phật tử hàng ngàn, hàng muôn ở khắp nơi trong nước, một bậc thạc sư về Phật học, trí tuệ siêu tuyệt mà lại ở vào trong hoàn cảnh cô tịch và đạm bạc đến thế này. (Trong khi đó thì các vị khác thua kém rất rõ, tài đức chẳng có ra gì, mà lại ở chốn thị thành, chùa to dinh rộng, nắm giữ những chức vụ quan trọng của Phật giáo, và nhận phần cung kính, lễ bái của Phật tử. So sánh về phẩm cách cao thượng cùng với sự thoát trần và “giai KHÔNG” giữa hai đàng thì cố Hòa thượng Thích Thiền Tâm và các vị đó thiệt là cách biệt quá xa, tựa như một người ở đầu non, còn một người ở nơi vực thẳm vậy).
Đây mới thật sự gọi là KHÔNG (không chùa, không đệ tử, không đàn na, không danh, không lợi, không sắc (tưởng), không tài lộc (bần tăng), không cần ai khen, ai chê, v.v… theo như các thói thường tình nhân thế.
Các vị tu hành thuộc đàn hậu tấn sau này nên xem gương của cố Hòa thượng rồi ngó lại tài, đức của mình mà phát lòng tâm quý, cố gắng tịnh tu, cho khỏi uổng danh là: Như lai sứ giả... Cũng khỏi phụ ơn của tính thí, đàn na (một trong tứ ân) đã vì mình mà cung kính cúng dường tứ sự.
Trong kinh Tổ sư có dạy:
- Người tu hành luôn luôn cần phải nghĩ đến “Ân của thí chủ”. Sao gọi là: Vì nghĩ Ân thí chủ?
Nghĩ đến Ân thí chủ là như vầy:
- Kẻ xuất gia hôm nay, đồ mặc thức ăn, đều nhờ tín thí, thuốc men giường chiếu, cũng của đàn na. Người (thí chủ) nhọc sức cấy cày, vẫn còn kém thiếu. Ta ngồi không thọ hưởng, sao nỡ an lòng? kẻ dệt may gian khổ, chẳng kể đêm hôm. Ta y phục dư thừa, há không mến tiếc?
Người nhà lá vách phên, trọn đời bận rộn. Ta nền cao đền rộng, thong thả quanh năm. Đem công sức khó nhọc để cung cấp cho ta sự an nhàn, lòng nào vui được? Lấy tài lợi riêng để giúp cho ta được no đủ, lý có hợp không?
Thế nên tự nghĩ:
- Phải vận lòng bi trí, tu phước huệ trang nghiêm, để đàn tín được phước duyên, chúng sanh nhờ lợi ích. Bằng chẳng vậy, thì chút hột cơm tấc vải, đền đáp có phân. Thân nô dịch súc sanh, nợ nần phải trả (1).
(Liên Tông thập nhứt tổ  Thiệt Hiền đại sư soạn, Vô Nhất Đại sư Thích Thiền Tâm dịch)
Ghi chú:
(1) Ý nói nếu không chơn thật tu hành thì ăn của người tín thí một hột cơm, nhận của đàn na một tấc vải. Kiếp sau cũng phải làm thân ở đợ, hoặc trâu ngựa đáp đền chớ không có sai chạy một phân nào hết.
(Vì thế cho nên hễ phàm là người Sa môn Thích sử thì phải luôn nghĩ đến ơn đàn na thí chủ rồi quán lại phận mình mà cố gắng chuyên tu, như thế cũng chưa đủ nữa, còn phải đem công đức tu hành của mình mà hồi hướng cho tứ ân (trong đó có ơn của đàn việt) mới được gọi là tạm tròn bổn phận. 
Ở nơi Hương Quang tịnh thất này, cố Hòa thượng ngày đêm nhiếp tâm trì niệm tu hành, và lặng lòng quán tưởng, gần như quên bẵng tục trần.
B. CẢM HÀNG DỊ LOẠI (Hàng dị loại cảm phục)
Vùng Phú An này (vào thời gian 1968 tức là hơn 24 năm về trước) đặc biệt là chỗ của cố Hòa thượng tịnh tu, vì là nơi rừng núi, ít có người lai vãng (đông đảo như miền phố chợ) và có lẽ cũng vì ở gần sông, suối nên có rất nhiều loại RẮN khác nhau.
Theo lời ngài kể lại, thì trong gần nửa năm đầu tiên về ẩn tu nơi đây, ngài gặp rất nhiều thứ rắn độc khác nhau, to có, trung bình có, nhỏ có. To thì cỡ bằng cột nhà, trung trung thì bằng bắp vế, nhỏ thì bằng bắp chân, cườm tay trở xuống v.v…
- Có đôi lúc sau khi làm vườn xong rồi, đến khi trở vào thất thì thấy rắn nó quấn đuôi vào trên ngạch cửa, thòng mình xuống, hả miệng, le lưỡi thở khè khè, ban đầu thì ngài cũng có ý sợ, chần chờ không dám bước qua, nhưng rồi nghĩ không lẽ đứng ở ngoài sân hoài hay là dùng cây đập đuổi thì gây thù oán khó lòng (vì rắn nó độc và thù dai lắm) thôi thì cứ niệm Phật mà bước qua đại, rủi có bị nó cắn chết thì mình cũng quy Tây, càng tốt chớ sao! Rồi ngài nhiếp tâm niệm Phật và nghĩ đến phép “từ bi quán” đoạn nhắm mắt lại (cho khỏi thấy ghê người) đi ngang qua cửa, con rắn “đánh đu” mình qua bên này, bên kia chạm vào mặt, vào cổ lạnh ngắt mà ngài cũng cứ làm tỉnh bước đi. Đến khi vào trong thất xong rồi mới mở mắt nhìn lại thì nó cũng vừa buông mình ra, rớt xuống đất nghe một cái đụi rồi bò ra ngoài rừng đi mất. (ghê quá).
- Lại có lần khác, sáng sớm thức dậy (để sửa soạn vào khóa lễ). Vừa bước xuống “đơn” (tức là cái đi văn nhỏ, bề ngang khoảng 8 tấc, bề dài khoảng hai thước rưỡi của người tu) thì ngài có cảm giác như là đạp trúng phải vật gì tròn tròn và mềm mềm, lấy làm lạ ngó xuống thì té ra đó là một con rắn hổ đen thui, to bằng bắp chân đang nằm khoanh một đống ở dưới chân giường!
Ngài nghĩ:
- Cha chả, mình đạp trúng nó một cái mạnh như vậy, chắc nó cắn mình quá. Liền niệm A Di Đà Phật năm bảy câu rồi đứng chết trân tại chỗ chớ không dám nhúc nhích. Còn con rắn kia dù bị ngài đạp trúng mà nó cũng không có phản ứng gì hung hăng hết, y ta từ từ cất đầu lên, nhìn ngài một hồi rồi le cái lưỡi (đỏ lòm ra) khè khè mấy cái đoạn nằm im trở lại (chắc nó đang say ngủ, hay là nó không có ác cảm gì với ngài cũng không chừng).
Lúc đó ngài mới dám bước đi, vừa mở cửa ra vừa niệm Phật mà bảo với “y ta” rằng:
- Thôi sáng rồi, đạo hữu cũng nên về đi để cho thầy còn niệm Phật nữa. Tưởng đâu nói khơi khơi vậy rồi thôi, không dè y ta dường như biết nghe nên y mới từ từ bung mình ra dài cả mấy thước, chầm chậm bò đến cửa một cách êm ái hòa bình, rồi ra ngoài rừng mất dạng.
- Thêm một lần khác nữa, đêm đó ngài niệm Phật và trì chú (Đại bi) đến khuya mới xong, vừa bước chân xuống cầu thang thì đạp phải lên một đống gì đó đen thui, to tướng, ngài biết chắc có lẽ là rắn (quen với mấy người quá xá rồi!) nhưng cũng làm thinh niệm A Di Đà Phật một hồi, đoạn bước đến bàn viết, vặn đèn lên cho tỏ để xem thì thấy một con rắn quá to (không biết làm sao mà nó lọt vào nhà được trong khi cửa nẻo đã đóng kín rồi. Sau này mới biết chúng nó là các loại rắn thần) đang cuộn tròn một đống bên cạnh đôi dép của mình. Nó nhìn ngài, ngài nhìn nó – hai bên làm thinh ngó nhau một chập, ngài vừa hỏi y ta rằng:
- Phải đạo hữu vào đây để nghe kinh, nghe niệm Phật không? Nếu phải thì gật đầu ba cái cho thầy biết đi. Rắn ta liền gật đầu 3 cái.
Cố Hòa thượng biềt rằng đây là loại rắn linh cũng ưa tu niệm chớ không có ý gì muốn làm hại mình, cũng như các lần trước, ngài mở cửa ra bảo thôi đạo hữu hãy về đi và y ta nhìn ngài với ánh mắt hiền lành rồi từ từ bỏ ra ngoài đi mất.
Từ đó trở đi, mỗi lần làm vườn hay tình cờ gặp phải các “người bạn dài thòn, thấy dễ sợ” này thì ngài niệm Phật cho nó nghe một hồi, rồi mạnh đường ai nấy đi, việc ai nấy làm chớ không có xảy ra chuyện gì khác lạ cả.
Biết vùng này có nhiều loại rắn linh mến mộ tu hành như vậy nên ngài mới làm pháp “Du già thí thực”, hồi hướng công đức tu niệm của mình để bố thí đến cho loài rắn và nói rằng (nói khơi khơi một mình nhưng dùng tâm tưởng và tác ý cho loài rắn được nghe):
- Vì khác loài nhau, nên từ nay nếu như quý vị muốn nghe kinh chú và niệm Phật, v.v… để tu theo thì cứ ở ngoài sân chớ đừng có vào trong thất của thầy nữa. Sau vài lần “truyền lịnh” như thế rồi từ đó về sau tuyệt nhiên không còn có một con rắn nào vào trong cốc nữa. Tuy vậy nhưng cũng chưa hết chuyện.
Số là các “y ta” vẫn còn lén lút vào trong thất chớ chẳng phải không đâu, nhưng vào rồi thì ẩn hình (vì là rắn thần nên có phép tàng hình) để không cho ngài thấy, nhưng bởi vì đã từ lâu cố Hòa thượng là người tu hành thanh tịnh nên ngài có một cảm giác rất lạ, khác với người thường, mặc dù không thấy được hình dạng của họ, mà ngài vẫn cảm biết là các “y ta” thỉnh thoảng cũng vẫn còn hiện diện trong thất, nhưng vì từ bi nên cũng không nói gì.
Có đôi khi giữa đêm ngài tình cờ thức giấc, hay trở mình, hoặc co duỗi tay chân, thì mấy “y ta” trốn không kịp, nên bị ngài rờ trúng, hoặc lăn qua đụng nhằm, ban đầu thì ngài cũng giật mình đôi chút vì cảm thấy mình chạm phải hay đạp nhằm vật chi tròn, dài láng và mát mát, tuy không biết chắc thứ gì nhưng trong bụng ngài là rắn rồi nên lấy tay sờ kỹ lại (coi có phải không) thì mấy y ta biến mất (biết bị lộ tẩy rồi nên tẩu vi thượng sách).
Nhiều lần như vậy, và ngài rõ biết một điều chắc chắn là mấy y ta chờ khi nào mình ngủ quên rồi thì tàng hình và lén bò lên giường nằm kế một bên để “dựa hơi Hòa thượng” hầu “ké” vào nơi công đức trì niệm của mình để cho sớm được thành tựu công tu của họ (giống như ăn trộm công đức vậy).
Biết được như thế rồi, ngài không được vui cho lắm. Một buổi tối nọ, sau khi xong phần tu niệm rồi, ngài xuống dưới nhà, ngồi trên ghế bắt ấn và trì chú “Triệu thỉnh” chư thần, trong tâm mật tưởng là không muốn cho các chuyện này tiếp tục xảy ra nữa. Xong pháp sự rồi ngài mới đi ngủ.
Đêm đó ngài mơ thấy như sau:
- Nghe bên ngoài có tiếng gõ cửa và có người nói rằng:
- Bạch Đại Đức, có đệ tử đến thăm và xin được hầu chuyện.
Vía ngài mới ngồi dậy, bước lại mở cửa ra, thì thấy bên ngoài có một vị thần tướng cao chừng 2 thước tây, mình mặc áo lụa xanh, dung sắc hiền hòa nhưng vui vẻ, chắp tay niệm Phật và cúi đầu chào.
Ngài mời vào thất và cùng ngồi trò chuyện, vị ấy tự xưng là sơn thần của vùng này, vì ban tối Đại Đức có triệu nên mới dám đến quấy phiền.
Trong mơ ngài mới tỏ lại chuyện trên và muốn rằng các việc lén lút ăn cắp công đức tu hành như vậy không nên tiếp tục nữa vì mỗi bữa ngài đều có hồi hướng và bố thí cho hết rồi.
Sơn thần đáp:
- Tôi có dẫn đại diện họ tới đây để tạ lỗi cùng Đại Đức. Vậy xin cho phép nó vào.
Ngài đồng ý và vị Sơn thần mới gọi to:
- Đạo hữu vào đi.
Sau khi gọi xong thì thấy từ bên ngoài bò vào một con rắn quá lớn, to như cậy cột nhà, mình rắn, đầu người đến trước mặt ngài cúi đầu tạ lỗi, nói tiếng (người) rằng: - Vì các con cháu quá kính trọng và thương mến ngài nên lỡ lầm làm cho ngài không được vui, phần tôi cũng có lỗi là không giáo huấn kỹ lưỡng. Xin hứa từ nay sẽ không còn tái phạm (các việc) như vậy nữa.
Sau việc này rồi, từ đó trở đi (cho đến mãi về sau này) không còn có một “y ta” nào dám lai vãng vào trong thất của ngài nữa cả.
Và cũng do từ nơi chuyện này nên cố Hòa thượng được biết chắc chắn thêm một điều nữa rằng: Ở miền rừng núi linh thiêng cũng có các cảnh giới bên kia, có chư thần cùng các loài linh vật sống lâu, ưa thích tu niệm. (Để cảm ơn Sơn thần giúp đỡ nên ngài mới cho dựng lên miếu thờ Sơn thần và Thổ địa ở trên sườn đồi và bên cạnh Phương Liên thất – đó là việc sau).
C. KHẨN HOANG
Hơn nữa năm sau đó, nhờ sức tinh tấn và thanh tịnh tu hành nên dần dần ngài phát sanh thêm trí huệ và cảm nhận được nhiều sự thấy biết khác lạ. Đó là việc ngài tiên đoán trước rằng, sau đây một thời gian không lâu, nơi đây sẽ trở thành một vùng đất tu hành và cũng là nơi quy hướng của hàng tứ chúng vân tập về cùng chung tu niệm.
Vả lại trước kia, qua bài kệ của Bồ tát trao cho, trong đó cũng đã có nói rõ ràng. Chẳng qua là duyên Phật định sẵn rồi, thôi thì ta cũng phải tùy thuận vậy chớ biết sao hơn (ẩn tu rồi mà cũng không thoát được các sự phiền nhọc).
Để chuẩn bị cho Đạo tràng trong tương lai nên ngài mới khởi ra ý niệm là khai phá thêm đất hoang chung quanh hầu sau này tứ chúng quy về có nơi an trụ. Vì chỗ ngài ở có lẫn lộn với người Thượng nên ngài mới lân la đến làm quen, những người thiểu số này họ cũng biết nói tiếng kinh và có vẻ văn minh, tử tế (1). Vả lại, từ lâu vì biết ngài là người tu hành (hơn nữa nằm thường trú ở đây nên cũng đã có nhiều lần gặp mặt nhau rồi), do đó mà họ cũng rất thân ái và kính trọng ngài lắm.
Ghi chú:
(1) Người Thượng thuộc vùng Đà Lạt và Ban Mê Thuộc là các sắc tộc thiểu số văn minh, có họ và hiền lành.
Sống đâu quen đó. Dần dần ngài thấy, biết được các người Sơn cước này giỏi dắn và rành nghề khai phá đất đai nên ngài mới ngỏ ý nhờ họ giúp đỡ về việc phát hoang thì họ liền nhận chịu. Cứ mỗi một mẫu đất được dọn sạch sẽ xong thì họ đòi giá biểu là 500 đồng, và ngài đồng ý mướn họ khẩn hoang như vậy, hễ xong được mẫu đất nào rồi thì vẽ địa đồ và trình lên chánh quyền xin hợp thức hóa giấy tờ và cấp bằng khoán đất (Vào thời gian này vì chánh quyền đang phát động chương trình “khẩn hoang lập ấp” cho nên việc hợp thức hóa đất mới khai phá rất dễ dàng).
Với phương cách này ngài được chánh quyền cấp bằng khoán sở hữu chủ đến trên mười mẫu đất (Sau này chư tăng ni về tu thì ngài cấp cho mỗi người vài ba công đất để cất cốc ở và trồng trọt, tự túc cánh sinh).
Nhờ sự phát quang này nên vùng đất hoang vu, cỏ cây rậm rạp, ít người lai vãng trước kia dần dần trở nên sáng sủa và sạch sẽ, rắn rít, muỗi mòng do đó cũng giảm bớt đi rất nhiều.
Ngài lại bắt chước theo cách thức trồng trọt của người Thượng cùng với sự chỉ dẫn thêm từ các người “bạn Sơn cước” mới này mà trồng tỉa các loại thực phẩm như: bắp, đậu, khoai lang, khoai mì (sắn) v.v… chung quanh tịnh thất. Theo lời ngài kể lại cho cháu là ĐĐ. Bổn sư Thích Hải Quang nghe thì ban đầu việc trồng trọt rất gian lao nhưng không thâu hoạch được kết quả bao nhiêu hết bởi vì các thú rừng ra “cướp đoạt” sạch bách!!
- Như trường hợp (có lần) ngài trồng bắp bên cạnh bờ suối, đến khi bắp có trái ăn sắp sửa được rồi thì bị khỉ từ trên các ngọn cây chung quanh xuống hái hết! Các loài khỉ này rất tinh khôn, cứ mỗi con xuống hái bắp như vậy, mỗi tay nó cầm một trái cũng chưa đủ đâu mà nó còn lấy giây khoai lang cột chung quanh bụng (như giây nịt lưng vậy) rồi bẻ bắp giắt vào trong đó cho nên chỉ một con khỉ thôi mà có khi nó hái đến cả 5, 6 trái bắp! (một đàn khỉ có đến mười mấy con, cho nên nó hái ráo tuốt hết) làm cho sư khổ chủ chỉ còn có cách là đứng nhìn và lắc đầu chịu thua luôn. Còn có một lần khác nữa, ngài trồng khoai mì gần bìa rừng thì bị heo ra ủi gốc ăn củ! Hôm đó ngài tảng bộ ra thăm mấy giồng khoai mì thì gặp một con heo rừng thật to (loại heo chảng) đang cắm đầu ủi gốc mì ăn củ, nhai nghe rào rạo, ngài mới la lớn lên, làm bộ hù để cho nó giật mình chạy đi, nhưng gặp thứ heo chằng này thì nó đâu có sợ (lì lắm) vì vậy nên nó cứ đứng tỉnh bơ tiếp tục ăn khoai ngon lành, lại còn thêm 5, 6 trự heo con đồng lõa nữa chớ!
Thấy hù hoài mà nó vẫn không sợ nên ngài lại gần lấy tay đánh vào đít nó mà nó cũng cứ làm tĩnh không đi, (chắc là đang mê ăn) ngài lại lấy hai tay xô lên mông của nó đẩy đi và bảo rằng heo ơi mầy đi đi nghe không bộ định ăn hết khoai mì hổng chừa cho ta củ nào hết sao, thì nó mới chịu đứng lên, kêu ục ịch một hồi rồi 6, 7 mẹ con dắt nhau đi tuốt vô rừng! (May phước là nó không có quay đầu lại “tán”. Bởi vì miệng nó có răng nanh dài cả gang tay (heo chảng mà), nếu nó tán trúng thì bị thương liền). Đại khái là thế. (Sau này khi đất đai chung quanh được dọn dẹp trống trải hết rồi thì khỉ và heo rừng mới không còn ra nữa).
Đến đây ta thấy gì?
Ta thấy thương cố Hòa thượng rất nhiều, ngoài việc lo chơn thật tu hành, quyết tâm cầu giải thoát ra, ngài lại còn là một con người đơn giản và đạm bạc, trọn đời không màng chi đến danh lợi, khen chê. Một mình an ẩn nơi chốn núi rừng, tự tu, tự sống – chẳng những ngài không theo đuổi, tìm cầu, hay mưu tạocho riêng mình cái vẻ hào nháng bên ngoài cho xứng với danh tiếng của một đại tăng, mà trái lại, ngài đã bỏ hẳn lại sau lưng tất cả các sự vinh dự sẵn có của mình.
Cái “phong cách” cao thượng này trong hàng ngũ chư tăng Việt Nam chắc chắn là chẳng có được mấy người – và đây mới thật gọi là TU vậy).
D. KIM XÀ THÁNH GIẢ
Đây là một tiết mục “đặc biệt” nhất trong quyển sách này, kể lại một vài việc trong số (rất nhiều) việc huyền bí của miền sơn cước linh thiêng mà cố Hòa thượng là người “chủ sự” và trực tiếp đương đầu trong suốt thời gian trên 20 năm ẩn cư tại đây tu tập.
Người đọc cần phải hội đủ lòng tin và dùng tâm trân trọng, chớ nên nói rằng: thời buổi khoa học này thì làm gì mà có các sự việc như vậy, hoặc là chừng nào tôi thấy thì tôi mới tin v.v… Bởi vì đây không phải là cảnh giới của mình, không phải là công đức tu của mình, (tức là mình tu chưa đạt đến mức như vậy) thì làm sao thấy được, gặp được hay biết được. Mà nói là “thấy mới tin”.
(Chừng nào mình tu được như người, hành sự, tỷ được như người thì chừng đó mình cũng sẽ thấy, biết, có khi còn cao siêu, lạ lùng hơn nữa kìa).
Kinh dạy:
- Này Thiện nam tử! Tín tâm có hai thứ:
- Một là tin – Hai là cầu.
Người dầu có tin nhưng chẳng thể suy cầu (1) nên gọi là tín tâm chẳng đầy đủ.
- Tín tâm lại có hai thứ: – Một là từ nghe pháp mà sanh lòng tin – Hai là từ tư duy (2) mà sanh lòng tin. Tín tâm của người do nghe pháp mà sanh chớ chẳng phải do tư duy mà sanh nên gọi là tín tâm chẳng đầy đủ.
Ghi chú:
(1) Suy cầu: Suy nghĩ để cầu tìm nghĩa lý chơn thật
(2) Tư duy: Nghĩ xét và suy lường một cách kỹ lưỡng
Tín tâm cũng có thêm hai thứ nữa: – Một là tin có thánh đạo – Hai là tin có người đắc đạo. Người dầu tin có thánh đạo nhưng trọn chẳng tin có người đắc đạo, nên gọi là tín tâm chẳng đầy đủ. Người mà tín tâm chẳng đầy đủ, thì thọ trì cấm giới cũng chẳng đầy đủ.
(Đại Bát Niết bàn kinh – Phẩm Ca Diếp Bồ tát)
Nơi đây, trong phần này, người viết tôi muốn nhấn mạnh vào hai điểm quan trọng:
1. Có rất nhiều người (tại gia lẫn xuất gia) mỗi khi nghe nói ở phương đó có một vị thượng tọa hay hòa thượng nào tu cao, đạt được vài ba sự phi thường (mà họ không bao giờ có được) thì họ hoặc là bỉu môi, hoặc là cười nhạo, chẳng những không tin mà còn nói lời bài bác rằng:
- Ối, đời này mà làm gì có việc đó chớ. Chỉ xạo mà thôi. (Họ chẳng tin có người đắc đạo mặc dù họ là người có đạo và đang tu theo đạo).
2. Có rất nhiều người (tại gia lẫn xuất gia) mỗi khi nghe nói đến việc mộng (của các bậc thanh tịnh và chân thật tu hành, ẩn cư nơi núi rừng xa vắng) thì họ bỉu môi cười nhạo, chẳng những không tin mà còn nói lời bài bác rằng:
- Ối, ở đó mà tin theo các việc mộng mị. Tu không lo mà tối ngày cứ bàn chuyện mộng mơ làm như mê tín. Bảo Đăng tôi đã nhiều lần nghe thấy như vậy (mà lại là ở nơi người xuất gia nữa chớ) nên cũng lấy làm lạ lắm. Đành rằng cái việc mộng mị có khi do tư tưởng thái quá mà sanh ra, các loại này đa phần đều không thật. Nhưng cũng có các loại mộng do tâm thanh tịnh mà cảm thấy được, các loại mộng này hầu hết đều có thiệt và sẽ xảy tới trong tương lai, nhứt định là không sai chạy đâu hết, chỉ tại vì mình tâm bất tịnh nên không thấy biết trước mà thôi.
Xin đơn cử ra vài ba ví dụ:
a. Bên đạo Tiên:
- Có nhiều vị tu tiên, do vì ẩn cư nơi chốn núi rừng thanh tịnh trải qua nhiều năm tháng nên thấy biết được chuyện quá khứ, vị lai – Như Trạng Trình – Nguyễn Bỉnh Khiêm, biết được chuyện 500 năm sau … mà không dám tiết lộ cơ trời nên làm ra sấm ký, nghĩa lý ẩn hiện chẳng rõ ràng, người đời không hiểu thấu, phải đợi khi chuyện xảy ra rồi thì mới rõ được.
- Có nhiều vị tiên khác biết được chuyện vài ngàn năm trước và sau, (các chuyện này có ghi rất nhiều trong sách vở) như Khổng Minh hồi đời Tam quốc thấy được chuyện 2000 năm sau.
b. Bên đạo Phật:
- Đạo Phật ta còn huyền diệu hơn đạo Tiên chẳng biết bao nhiêu lần. Như trong kinh dạy, chỗ sở chứng của các bậc Thanh văn, Duyên giác, Bồ tát, Phật thì con số thời gian mà quý ngài thấy biết về quá khứ, vị lai, thì có thể dùng chữ vô lượng, vô biên, a tăng kỳ tiếp để diễn đạt mà thôi. Như bậc A la hán, sự thấy biết của quý ngài bao gồm 84.000 kiếp về trước và 84.000 kiếp về sau (mỗi kiếp là 16.500.000 năm, theo niên lịch của thế gian). Người Phật tử học Phật (và nhất là các vị xuất gia đều biết như vậy) chớ nên hoài nghi theo kiến chấp thiển cận của riêng mình mà chê, khen, bài bác về việc MỘNG của bậc tu cao có tâm thanh tịnh … mà cho rằng không thật rồi trề nhún, rẻ khinh. Ngay như Đức Thế tôn là bậc đại giác như vậy mà khi còn làm Bồ tát (lúc tu 6 năm khổ hạnh).
- Ngài cũng nằm mộng thấy 5 điềm.
- Vua Trần Nhân Tôn (là ứng thân của Phật Thích Ca Mâu Ni) cũng nằm mộng một lần.
- Ngài A Nan cũng nằm mộng thấy bảy điềm (A Nan thất mộng). Và trong kinh (Đại Bảo Tích), phẩm Pháp hội “Tịnh Cư Thiên Tử”, Đức Thế tôn cũng có dạy về mộng như sau:
- “Này Kim Cang Tồi, (là tên của một vị đại Bồ tát) ông nên lắng nghe, khéo suy nghĩ và nhớ lấy, nay ta sẽ vì ông mà nói: Này Kim Cang Tồi, có một trăm lẻ tám tướng trong chiêm bao được thấy, hành giả cần phải biết. Những gì là một trăm lẻ tám tướng (chiêm bao)”?
Do vì như vậy (và còn nhiều nữa mà không thể nào kể ra cho hết được …) nên chúng ta là những người học Phật chớ nên quan niệm coi thường về các sự tu chứng, huyền bí và chiêm bao – (nhất là của các bậc đại sư tu hành thanh tịnh nơi chốn lan nhã) mà bị người đa văn và có học kinh điển cười rằng: chỗ hiểu biết về giáo lý của mình chưa được thấu đáo!
Sở dĩ Bảo Đăng tôi nói rào đón dài dòng như vậy, là vì trong quyển sách này, trước sau đã có đề cập đến nhiều điềm mộng của cố Hòa thượng, đặc biệt là trong đoạn “Kim Xà thánh giả” này (và trở về sau)ghi lại một vài giấc mộng lạ thường mà những người không ở trong hoàn cảnh ẩn tu, nhập thất, niệm Phật thanh tịnh như ngài (kể cả luôn các vị xuất gia cao hạ nơi thành phố ồn ào chùa to, đình lớn nữa)cũng không thể nào thấu hiểu và cảm thông được cả.
Vậy, thế nào gọi là “Kim Xà thánh giả”?
Trước khi giải thích và đi sâu vào trong chi tiết của chương này, Bảo Đăng tôi xin ghi lại một đoạn sách nói ý tương tự như sau để làm phần dẫn nhập:
- “Khu vực Lô sơn (là nơi trụ xứ của Liên Tông sư tổ Huệ Viễn Đại sư  Tổ thứ nhất trong 13 vị tổ sư của Tông Tịnh độ tại Trung Hoa) có rất nhiều rắn độc, từ trước đã từng làm nguy hại đến tánh mạng của dân cư ở vùng đó. Nhưng kể từ khi có ngôi chùa Đông Lâm thì các loài rắn dữ ấy trở nên hiền lành, ngày lẫn đêm chúng thường vây quanh Đại sư để nghe giảng kinh. Bởi trường hợp này, nên Đại sư được người đương thời tôn hiệu là “Bích Xà Thánh giả” (Mấy điệu sen thanh Huệ Viễn Đại sư).
Nơi thôn Phú An này cũng thế (vào năm 1968 tức là 25 năm về trước) và đặc biệt tại chỗ ẩn tu của cố Hòa thượng, có rất nhiều loại rắn độc khác nhau, đã từng gây sợ hãi cho các cư dân người Thượng trong vùng, và cũng đã từng làm cho cố Hòa thượng của chúng ta phải bị giật mình “tí tí” vào những ngày tháng đầu tiên khi mới về “ghi danh” làm thường trú nhân tại đây (Đã có kể một tí trường hợp trong phần trước của đoạn này rồi).
Kể từ khi cố Hòa thượng về đây ẩn cư tu tập, nhờ ở nơi đạo hạnh và sự tinh cần lễ niệm, trì tụng của ngài nên dần dần cảm hóa được các loài rắn dữ, chúng nó cũng nương theo đại sư tu tập lâu ngày nên cũng được tinh thông (thành rắn thần).
Nơi miền rừng núi cao nguyên này, thường thì có rất nhiều gò mối lớn (đặc biệt của miền sơn cước), ban đầu thì cố Hòa thượng cũng tưởng đó chỉ là sự thông thường thôi, nên không lưu tâm cho mấy. Chính cái thất mà ngài đang ở (Phương Liên thất) cũng nằm trên một gò mối lớn (mà ngài đã nhờ lính công binh ủi bằng).
- Nhưng dần dần sống ở đây lâu, phần do người Thượng kể lại, phần do kinh nghiệm bản thân, nên ngài được biết chắc chắn một điều rằng tất cả gò mối đều là ổ hang của rắn cả, (rắn làm hang trong đó để ăn mối) gò mối càng lớn bao nhiêu thì rắn ở trong đó càng nhiều và càng to tướng bấy nhiêu (sống lâu năm lắm rồi).
Như vừa lược qua, căn tịnh thất của ngài ở được xây cất trên một gò mối lớn (đã được san bằng) vì vậy nên có nghĩa là trên mặt đất thì cố Hòa thượng của chúng ta ở, còn dưới mặt đất là rắn ở (mà ngài không biết). Hay nói một cách khác nữa là cố Hòa thượng đã vô tình “sống chung hòa bình” với cả đống rắn độc mà không hay biết chi hết. Sở dĩ các con rắn này nó không làm hại chi đến ngài là vì cứ mỗi tối, khi ngài niệm Phật, trì chú, hoặc lễ bái, sám hối, tụng kinh v.v... thì các “y ta” nằm im ở dưới nền nhà, hoặc là bò lên mặt đất, rồi ẩn hình nằm tại chỗ để nghe và tu theo. (Đây là lý do vì sao mà khi ngài mới dọn về  như đã có lược qua trong phần trước  là ở dưới chân giường, cầu thang … bỗng nhiên có rắn xuất hiện, con nào con nấy cũng dài đến cả mấy thước, to bằng bắp vế, nằm một đống đen thui trong cốc mà ngài không hiểu vì sao nó lại vào thất được, trong khi ngài đã đóng cửa vào kỹ lưỡng hết rồi).
Nhờ tu theo bằng cách “dựa hơi Hòa thượng” như thế – nhất là một đại Hòa thượng, tôn sư về Mật Tông và Tịnh Độ nữa. Trải qua nhiều tháng, năm nên các “ông dài” này dần dần trở nên linh thông biến hóa được (một năm tu theo cách “dựa hơi Hòa thượng” này bằng cả ngàn năm tự tu một mình). Do vì thầm cảm được cái ơn trọng đại đó, cho nên các “y ta” kính lễ cố Hòa thượng như bậc cha, thầy, còn các “y ta” thì giữ bổn phận của con, cháu hay đệ tử. Vì thế nên từ đó về sau các loài rắn này trở nên hiền hòa, chẳng những nó không làm cho ngài bực bội hay gây thương tổn chi, mà trái lại còn âm thầm theo bảo vệ cho “Sư phụ” nữa.
(Cũng nhờ đức độ của ngài nên mới cảm hóa được hàng dị loại như thế. Chớ nếu láu táu như mình vậy thì nó cắn cho một cái, bảo đảm 100% là “hui nhị tỳ” và “chầu Diêm vương” là cái chắc). Và cũng kể từ đó trở đi, vùng đất hoang vu trước kia dần dần trở thành ra là một “miền linh địa” (đất linh), đêm đêm đều có tiếng niệm Phật, tụng kinh cùng với tiếng mõ, chuông nhặt khoan, trầm bổng... chớ không còn đượm vẻ hoang sơ, tiêu điều như thuở trước.
Hỏi: Có chứng cớ gì cho thấy là các lời vừa nói ở trên đúng sự thật như vậy hay chăng?
- Đương nhiên là phải có chứng cớ đầy đủ, nên cố Hòa thượng mới biết đích xác như vậy, chớ nếu không thì ngài cũng chẳng thể làm sao rõ thấu mấy cái cảnh giới bí ẩn này được cả.
Sau đây là một vài chuyện liên hệ mà khi còn sanh tiền, cố Hòa thượng đã tự thân kể lại (cho ni sư Thanh Nguyệt và cháu là ĐĐ. Bổn sư Thích Hải Quang nghe):
 - Có lần đó, cố Hòa thượng đang ngồi làm cỏ tranh và xới đất bên cạnh một gò mối lớn ở phía sau thất(Phương liên) của ngài, lúc ngài quơ tay ra sau lưng để cầm cuốc thì ngài lấy làm lạ mà nói trong bụng rằng:
- Ủa, sao bữa nay cái cán cuốc có vẻ là lạ và bự quá vậy? Ngài mới quay đầu ngó lại thì té ra là mình đang nắm nhằm cần cổ của một con rắn to bằng bắp chân người lớn, màu đen có sọc vàng, rắn ta vì bị nắm cổ nên hả miệng, le lưỡi ra khè khè năm sáu tiếng (chắc là bị nghẹt cổ) làm cho ngài hết hồn vội vã buông tay ra và bước lùi lại phía sau, niệm Phật cả mấy chục câu mới định thần được. Xong rồi ngài đứng ngó y ta một lúc và nói rằng:
- Ủa, nhà ngươi ở đâu mà ra đây, nằm sau lưng ta hồi nào vậy? Thôi hãy đi đi (ngài lấy tay xua, khởi ý đuổi đi). Rắn ta cũng ngó ngài một hồi, gật đầu mấy cái (giống như xin lỗi) rồi bò ra phía sau gò mối, ngài đứng ngó theo xem nó bò đi đâu cho biết nhưng chờ hoài mà vẫn không thấy tâm hơi gì hết, ngài mới nghĩ:
- Ủa, bộ nó còn nằm gần đây sao mà không thấy bò đi đâu hết vậy kìa?
Đoạn ngài mới đi vòng quanh gò mối, tìm kiếm mấy lần mà cũng không thấy y ta đâu hết, bỗng dưng mà nó biếng dạng mất tiêu như là khói vậy. Tìm hoài mà cũng không thấy có cái miệng hang (rắn) nào hết.
Khuya lại, sau thời khóa trì niệm (gần 4 giờ sáng) ngài đang ngồi trên ghế bên cạnh bàn viết nghỉ mệt, định bụng chút nữa sẽ pha cà phê uống thì nghe bên ngoài có tiếng gõ cửa. Ngài lấy làm lạ, trong bụng nghĩ rằng:
- Ủa, giờ này còn sớm quá mà sao Thượng lại tới gõ cửa vậy kìa? (Bởi vì mỗi buổi sáng mấy người Thượng ưa tới gõ cửa thất của cố Hòa thượng để hỏi việc làm như là cuốc đất, phát cỏ hoang và lên giồng trồng khoai, sắn v.v… Mỗi lần như vậy là ngài ra mở cửa thì mấy người Thượng ấy hỏi rằng. Bữa nay thầy có việc gì cho tụi tôi làm không?
Và nếu như có việc gì cần thì ngài chỉ cho họ làm, xong rồi trả tiền công cho họ). Bữa nay nghe gõ cửa(còn khuya quá) nữa nên ngài cũng nghĩ chắc là người Thượng đến xin việc làm như mọi hôm vậy.
Ngài mới đứng lên, đi ra mở cửa thì thấy: Bên ngoài, trước mắt của ngài là hai người Thượng một nam, một nữ, tuổi chừng 50, dung mạo rất đơn sơ, mặt mũi sần sùi, da dẻ đen đúa, cả hai đều mặc quần áo màu chàm trông cũng rất sơ sài, đầu hơi nhọn, đi chân đất (không có dép, giày gì hết), bàn tay nhám nhúa giống như có vảy, đang chắp tay, cúi đầu chào ngài, miệng niệm Nam mô A Di Đà Phật.
Ngài nghĩ bụng:
- Ủa, hai người Thượng này ở đâu đến mà thấy lạ mặt, mình ở đây cũng đã lâu rồi mà chưa quen với hai vợ chồng này. Coi họ có vẻ nghèo và giống như bị bịnh mới hết! Thôi để ta giúp cho họ việc làm.
- Ủa, mà sao hai người Thượng này lại lễ phép quá, biết chắp tay chào và niệm Phật nữa?
Ngài hỏi:
- Phải hai vị đến xin việc làm hôn?
Hai người ấy đáp:
- Mô Phật, Kính bạch Hòa Thượng không.
- Ủa, vậy chớ có chuyện gì cần không mà gọi cửa tôi sớm quá vậy?
Người đàn ông đáp:
- Bạch Hòa thượng, hai vợ chồng con đến đây để xin lỗi Hòa thượng về chuyện đáng tiếc ban trưa, có đứa cháu nội đã làm cho ngài giật mình. Xin Hòa thượng từ bi tha lỗi và cho vợ chồng con sám hối.
Cố Hòa thượng lấy làm kỳ, trong bụng nghĩ rằng:
- Ủa, chuyện gì mà họ xin lỗi và sám hối kìa, lạ hôn, từ hôm qua đến nay mình có gặp hay thấy đứa nhỏ nào đâu mà họ lại nói như vậy. Nghĩ thế nên ngài mới hỏi:
- Cháu nội của hai vị hả, hồi nào, nó bao nhiêu tuổi? Tôi nhớ suốt cả ngày hôm qua có gặp đứa cháu nào đâu!
Người đàn bà đáp:
- Kính bạch Hòa thượng, cháu trai của con là đứa bé hôm qua mặc áo quần đen có sọc vàng nằm hầu phía sau lưng của ngài lúc ngài làm vườn đó.
Ngài mới hỏi (mà trong bụng cũng chưa nhớ rõ ra là ai, bởi vì đâu có đứa nhỏ nào mặc áo quần đen, sọc vàng theo hầu sau lưng mình suốt ngày hôm qua đâu): - Vậy hả, cháu bé bao nhiêu tuổi?
Người đàn bà đáp:
- Kính bạch Hòa thượng, cháu được 95 tuổi!!!
Cố Hòa thượng của chúng ta giật mình, sảng sốt hỏi tiếp:
- Ủa, cháu nội mà được 95 tuổi thì hai vị đây bao nhiêu tuổi?
Người đàn ông đáp:
- Dạ con được 842 tuổi và vợ của con 760 tuổi!
Đến đây thì Hòa thượng đã rõ biết họ là ai rồi, nên ngài mới hỏi tiếp:
- Hai vị ở đâu tới đây?
Người đàn ông thưa:
- Bạch Hòa thượng, chúng con ở Huỳnh Xà thôn nằm về phía Đông của thôn Phú An này cách nơi đây khoảng 9 cây số, gia đình con có khoảng một ngàn người.
Vừa nói tới đây thì người đàn bà nắm lấy tay của ông chồng dặt dặt mấy cái như ra hiệu đừng nên nói nữa (chắc sợ bị lộ tông tích) làm cho người chồng mới nói đến câu: khoảng một ngàn người... thì làm thinh luôn.
Cố Hòa thượng gật đầu nói:
- Thôi hai vị yên lòng về đi, không sao đâu.
Nghe ngài bảo như vậy thì hai vợ chồng người này đồng chắp tay cúi chào rồi quay lưng đi vòng ra sau thất của ngài. Hòa thượng mới nom theo xem họ đi đâu và làm thế nào cho biết, thì ngài thấy khi họ ra đến phía sau rồi, cả hai người đồng hóa ra hai luồng ánh sáng màu vàng nhạt lớn bằng cườm tay, bay bỗng lên không về hướng Đông đi mất (giống như ông đi, bà xẹt vậy).
Do đó nên ngài biết rằng:
- Đứa bé 95 tuổi mặc áo đen, sọc vàng là con rắn đen có vằn vàng ngày hôm qua đã làm cho mình hết hồn!
- Hai vợ chồng này là rắn chúa (chúa động). Hang ổ chánh của họ nằm về hướng Đông của ấp Phú An, cách đây 9 cây số có tên là “Huỳnh Xà động” (động rắn vàng).
- Chắc có lẽ họ mới biết biến hình nên dung mạo còn thô sơ chớ chưa được đẹp người. Và hơn nữa chắc mỗi đêm họ ít nhiều gì đó cũng có đến đây nghe kinh và tu theo mình nên mới có vẻ kính trọng mình và biết chắp tay niệm Phật như vậy.
Đây là một chuyện. Và khởi đầu cũng do nơi chuyện này cho nên Bảo Đăng tôi (bắt chước theo chuyện của Liên Tông sư tổ, Huệ Viễn Đại sư ở Lô Sơn ngày xưa) mệnh danh cho cố Hòa thượng Tôn sư hiệu là:
“KIM XÀ THÁNH GIẢ”
(Giống như Bích Xà Thánh Giả của Lô sơn Liên Tông sư tổ, Huệ Viễn Đại sư vậy).
Kế tiếp theo đây, Bảo Đăng tôi xin kể hầu cho quý vị nghe thêm một vài chuyện nữa có liên quan đến hai vị “Kim Xà Vương” này và “Kim Xà Thánh giả”, Vô Nhất Đại sư của chúng ta:
- Nguyên gần 10 năm về trước, lúc cố Hòa thượng còn nhập thất ở Bến Tre, ngài có quen với một vị tu sĩ tên là “Ông sư Mỏ Cày”. Sở dĩ gọi là ông sư Mỏ Cày bởi vì vị này tuy có hình tướng một nhà sư Phật giáo, nhưng thật ra là một người đạo sĩ tu tiên luyện điển theo phương pháp xuất hồn, địa danh (tên của vùng đất) nơi ông sư này ở tu tên Mỏ Cày, vì thế nên mọi người và luôn cả cố Hòa thượng nữa cũng gọi tên ông sư Mỏ Cày mà thôi chớ không ai biết được tên thật của ổng là chi hết. Ông sư này rất kính quý cố Hòa thượng qua phong cách và đạo hạnh của ngài, nên thỉnh thoảng cũng có đến viếng thăm và kể lại cho ngài nghe về một vài việc chứng đắc trong đường tu (tiên) của mình, còn cố Hòa thượng thì cũng có chỉ dẫn thêm cho sư một vài pháp tu bổ túc, vì vậy mà sư có một sự mang ơn ở nơi cố Hòa thượng.
Lúc ngài về Sài gòn và làm Đốc giáo ở Phật học viện Huệ Nghiêm rồi thì sư cũng có đến thăm một lần, đến khi cố Hòa thượng lìa Huệ Nghiêm để ẩn tu thì hai đàng biệt nhau. Mãi đến mấy năm sau, sư mới tìm được lên Đại Ninh (trước sau hai lần) để thăm cố Hòa thượng và rồi sư qua đời vào mấy năm sau đó.
Lần đầu tiên sư lên thăm cố Hòa thượng vào năm 1970 (lúc đó thì ngài không còn ở Hương Quang thất nữa, mà đã dời về thất mới là Phương Liên tịnh xứ rồi) và được Hòa thượng cho phép ở lại thất của ngài vài ba hôm để đàm đạo giáo lý và tu tập (Sư thọ giáo Mật Tông từ nơi cố Hòa thượng).
Qua đêm đầu tiên, sáng lại sư có thưa với cố Hòa thượng rằng thất của ngài đang ở tu nằm trên miệng hang của một động rắn “Kim xà” rất lớn và xin Hòa thượng hãy cẩn thận vì đây là các loại rắn thần con nào con nấy cũng sống trên mấy trăm năm hết.
Cố Hòa thượng gật đầu, nói với sư là ngài đã biết việc đó từ lâu rồi (và cũng có kể lại cho sư nghe về vài ba chuyện của các Kim xà này – giống như Bảo Đăng vừa kể cho quý vị nghe vậy), từ đó sư càng thêm kính phục cố Hòa thượng lắm.
Qua ngày kế đó, sư nằm ngủ và xuất hồn ra đi “thăm” xà động này, khi thức dậy sư có thưa cùng ngài như sau:
- Nguyên từ mặt đất của nền thất Phương Liên đi thẳng xuống dưới (lòng đất) sâu 800 thước có một động rắn lớn, trong đây có khoảng 200 “ông dài” đều sống từ hơn 100 cho đến gần 1000 tuổi hết. Động này có đường hầm thông qua 3, 4 động khác nữa. Chúa tể của tất cả các động rắn này là một đôi Xà vương (rắn chúa màu nửa đen, nửa vàng và đều đã được trên một ngàn tuổi rồi. Cặp Xà Vương này hiện đang ở ngay dưới nền thất của cố Hòa thượng cùng với các con cháu, mỗi đêm đều có nghe ngài niệm Phật, trì chú và tu theo cho nên biết biến hóa và đồng thờ cố Hòa thượng làm thầy để nương theo tu tập.
Sư kể tiếp rằng, khi sư xuất hồn ra gặp hai vị Xà Vương động chúa này rồi thì mấy vị đó có nhờ sư về thưa lại với ngài là họ muốn được quy y Tam Bảo để cho được sớm thoát khỏi kiếp rắn, họ cũng nói rằng trước kia họ chỉ có sống lâu thôi chớ không biết phương cách tu hành (vì rắn lột da cho nên sống lâu lắm), cứ ban ngày thì ngó mặt trời, ban đêm thì ngó theo trăng, sao (tu theo phép luyện âm dương nhị khí) nên mặc dù sống hơn cả ngàn năm rồi mà vẫn không sao biến hóa được. Từ khi cố Hòa thượng về ở đây tu, mấy năm trôi qua cũng nhờ nương theo oai lực chú ẩn và câu niệm Phật của Hòa thượng mỗi đêm, cho nên nay đã bắt đầu biến hóa được rồi và thân mình cũng đã đổi từ màu đen ra màu hơi vàng(tức là từ Hắc xà vương chuyển dần qua Kim xà vương). Hiện thời thì hai vị đó đang cùng với các quyến thuộc đều ẩn hình ở tại đây để tu và ngầm bảo vệ cho ngài là bậc đại sư của họ.
Hòa thượng gật đầu và nhờ sư xuất hồn ra chuyển lời lại cho các vị Xà thần này biết là hôm sau Hòa thượng sẽ truyền phép Tam Quy (Quy y Phật, Pháp, Tăng – Tam Bảo) để cho họ được dự vào hàng Phật tử.
Và sư làm theo lời ngài dạy:
Hôm sau, Hòa thượng đắp y, hậu ngồi trên pháp tòa bày sẵn giữa tịnh thất, trì chú và bất ấn Triệu thỉnh, chỉ đích danh 2 vị Xà vương chúa động Huỳnh xà thôn (với sự hiện diện của sư Mỏ Cày) gọi về.
Liền sau đó ngài thấy trước mắt mờ ảo ẩn hiện ra hai vị xà thần bò vào và hiện hình ra hai người một nam, một nữ trong lứa tuổi khoảng ngoài 60, cả hai đều mặc áo ngắn màu vàng luốc, quỳ trước mặt chắp tay cúi đầu phụng mạng.
Hòa thượng mới thuyết Tam quy cho nghe và kế đó là quy y cho họ cùng các quyến thuộc, đốt chú ấn (mà ngài đã vẽ sẵn trên giấy vàng) để pháp thí cùng rải nước cam lồ xoáy tịnh, chú nguyện cho họ sau khi thoát kiếp rắn đều được sanh thiền, y như Phật pháp tu hành.
(Kể từ đây ngoài các đệ tử thuộc về nhơn đạo ra, ngài còn có thêm các đệ tử thuộc về thần đạo và súc đạo nữa – việc làm này những tăng ni (lục lục thường tài) chỉ biết tụng kinh niệm Phật, cầu phước qua ngày, không lòng tin, không tu Mật tông và không có cảm ứng đạo giao với cảnh giới vô hình đều không thể nào hiểu thấu được cả). Ngoài ra cố Hòa thượng cũng còn có quy y cho chư thần địa phương như thổ thần, sơn thần, thọ thần v.v… Các vị này cũng đều đồng nương theo ngài để tu tập hết …
Đến năm 1974, Sư Mỏ Cày có lên thăm cố Hòa thượng một lần nữa và ở cùng với ngài một tuần lễ. Sư có thưa cùng với cố Hòa thượng mấy điều sau:
1. Về tình hình đất nước vào năm tới (1975) sẽ có một sự “đổi đời” rất lớn, vô số người chết. (tức là biến cố tháng 4 năm Ất Mão 1975).
2. Sư có xuất hồn ra gặp lại các xà thần, điều đặc biệt nhất mà sư thưa cùng với cố Hòa thượng là cặp Xà vương Động chúa Huỳnh xà thôn, mấy năm qua nhờ được quy y Tam Bảo và tu theo phép của ngài truyền cho (đốt nghi thức tu để pháp thí) khi trước nên bây giờ đều được biến hóa linh thông, từ nơi Hắc xà vương này đã chuyển ra thân Kim xà vương (Rắn chúa màu vàng) và thường hay biến thành hình sư tăng mặc áo vàng, mỗi đêm đều có đi kinh hành niệm Phật chung quanh thất của Hòa thượng hầu hạ và bảo vệ cho ngài trong tất cả mọi hoàn cảnh (để báo đức tôn sư).
Mấy đêm sau, qua sự trung gian của vị sư Mỏ Cày, ngài mới cho triệu hai vị Chúa động này về. Đêm đó, cố Hòa thượng chiêm bao, thấy như sau:
- Bên ngoài có hai vị, một tăng, một ni đều mặc áo vàng đi theo sư Mỏ Cày vào trong thất quỳ xuống cung kính đảnh lễ. Ngài hỏi là ai và từ đâu đến?
Hai vị ấy thưa:
- Bạch tôn sư chúng đệ tử là động chúa Huỳnh xà thôn, nghe lịnh triệu thỉnh nên về phục mạng.
Hòa thượng truyền cho đứng dậy thì thấy hai vị ấy thân tướng cũng quang minh, thần sắc sáng sủa, nghiêm chỉnh, trên trán mỗi người đều có chữ Vạn màu đỏ, trước ngực mang một xâu chuỗi lóng lánh hào quang.
Ngài hỏi vì sao hai con lại có được các môn pháp bửu này?
Hai vị ấy thưa:
- Bạch tôn sư, chữ Vạn này là nhờ nơi quy y Tam Bảo mà có, còn xâu chuỗi này là do công tu tập mà thành. Bất cứ người nào (ý nói là xà thần) ở gần và tu theo tôn sư 3 năm đều cảm hiện ra được cả. Trong hàng quyến thuộc của con hầu hết đều được chuỗi này. Kể từ khi chúng con có 2 môn bửu bối này (chữ Vạn là một, xâu chuỗi pháp bảo là hai) trên người rồi thì mỗi khi chúng con đi dạo chơi đến nơi nào cũng đều được chư thần ở địa phương đó kính trọng, nhường đường và gọi chúng con là Phật tử.
Hòa thượng gật đầu thuyết pháp cho nghe cùng khuyến nhắc tu hành. Các vị ấy đều lạy tạ ơn và biến mất.
Mấy hôm sau “Sư ông Mỏ Cày” ra về và có thưa với cố Hòa thượng rằng:
- Lần này là lần cuối cùng gặp nhau. Sang năm (1975) sư sẽ dời về vùng núi Thất Sơn ẩn tu và sẽ tịch vào năm 1980, không còn có dịp gặp lại ngài được nữa.
(Còn Hòa thượng thì tịch 18 năm sau. Ngày mở cửa mả của ngài, hai vị Kim xà đệ tử này có đến hiện hình ra là hai con rắn màu vàng rực rỡ bò lại trước đầu mộ của ngài một chốc rồi mới bò vào trong đám cỏ tranh và biến mất, tất cả mọi người hiện diện trong buổi lễ hôm đó đều thấy rõ ràng. Bên Việt Nam chỉ trừ độc nhất một mình ni sư trưởng tử Thanh Nguyệt (và bên Mỹ là Đại đức bổ sư Thích Hải Quang) là biết rõ căn cội của cặp rắn này mà thôi, ngoài ra không một ai hiểu thấu vì sao mà lại có đôi kim xà này xuất hiện đúng vào ngày “mở cửa mả” của cố Hòa thượng – nên đều có ý nghi ngờ. Đây là chuyện sau).
Sau năm 1975, có một vài vị tăng sinh của Phật Học Viện Huệ Nghiêm lên Đại Ninh thăm cố Hòa thượng và ngủ ở ngoài tu viện Hương Nghiêm, nửa đêm thức giấc (đi tiểu) ở phía sau (nhà cầu), sáng dậy nói với mấy thầy nơi tu viện rằng:
- Cha chả, ông già của tụi mình tu hành tinh tấn ác ôn!
Mấy thầy Tu viện hỏi:
- Sao biết là ông già tu hành tinh tấn?
Khách tăng trả lời rằng:
- Hồi hôm này lúc 2 giờ khuya, tôi thức dậy đi tiểu, lúc trở vào, ngó qua bên thất của ông già thấy ổng vẫn còn mặc hậu đi kinh hành ở ngoài lan can trên lầu thất của ổng, nên biết rằng ông già tu hành suốt cả đêm, tụi mình thiệt không bằng (nhưng thật ra thì người mặc áo vàng đi kinh hành chung quanh lầu đó không phải là ngài đâu, mà chính là một trong hai vị Kim xà vương đệ tử hiện hình tăng tướng đi vòng quanh thất để bảo vệ cho “Sư phụ” của mình được an lành nghỉ ngơi và tu niệm).
Đến đây, trước khi qua một chương khác, Bảo Đăng tôi xin kể hầu quý vị thêm một vài chuyện ngắn khác nữa (trong số rất nhiều chuyện mà Bảo Đăng được nghe từ nơi Đại Đức Bổn sư) như sau:
- Một lần khác, quý thầy bên Tu viện (Hương Nghiêm) dọn đất trồng lúa, bắp – nên gom các cỏ tranh, chà, bổi vừa mới làm xong … lại thành một đống lớn để trên gò mối gần đó, đốt bỏ. (Hôm ấy cố Hòa thượng ngó qua, thấy thế ngài mới rầy, bảo là đốt như vậy lỡ chết côn trùng mang tội. Sau này Đại Đức Bổn sư cũng bị ngài rầy hết mấy lần (về việc tương tự như vậy) vì đốt rác ẩu ở trên gò mối).
Khuya lại, sau khóa lễ (gần 1 giờ sáng) ngài chuẩn bị đi ngủ nghe có tiếng khóc ở phía trước cửa. Ban đầu ngài tưởng đâu vì mình sớn sác nên nghe lầm, nhưng khi lắng tai nghe kỹ lại thì rõ ràng là tiếng con nít khóc chớ không sai chạy chút nào hết, ngài mới mở cửa ra đứng bên ngoài nhìn chung quanh để tìm, đêm đó nhờ có trăng tỏ cho nên chỉ một chút sau thì ngài thấy ở dưới gốc mít phía trước thất có một đứa nhỏ đang ngồi khóc và có vẻ đau đớn lắm. Ngài lại gần hỏi con là ai, sao ngồi khóc vậy, lại đây thầy biểu coi, (ghê quá).
Đứa nhỏ đứng dậy bước ra, đó là một em bé trai khoảng 5, 6 tuổi gương mặt cũng dễ coi, mặc áo màu xanh (chắc là rắn lục), lại gần cố Hòa thượngnói con bị phỏng hết cả lưng, đau rát lắm.
Ngài hỏi vì sao mà bị như vậy?
Bé đáp:
- Hồi trưa này con đang nằm ngủ thì bị lửa ở đâu đốt cháy, vì ngủ mê nên không hay, đến khi nóng quá, giật mình thức dậy thì chạy không kịp nên cả lưng bị phỏng hết (lửa của mấy thầy đốt gò mối), xin tôn sư từ bi cứu độ.
Cố Hòa thượng vừa nghe nói vậy thì ngài biết “Bé” này thuộc về giống gì rồi, nên ngài có lòng thương, dẫn nó vào trong cốc, lấy chung nước cúng Phật trên bàn thờ xuống trì chú (A Di Đà Cam lộ Chơn ngôn)vào nước một hồi rồi rải trên lưng của nó, xong ngài mới bảo bé rằng thôi con về đi, không sao đâu mai sẽ lành.
“Bé” lạy tạ ơn, ra khỏi cửa rồi biến mất.
Đêm sau ngài nằm chiêm bao thấy có một người đàn bà chắc là “má mi” dắt nó đến cám ơn, trong mơ thấy nó hết khóc rồi và cười nói vui vẻ.
Một câu chuyện khác:
- Nơi cốc Phương Liên 2 (có hai thất Phương liên, thất 1 là của cố Hòa thượng ở  thất 2 là của ni sư Thanh Nguyệt cất cho thân phụ ở. Còn ni sư thì ở tại thất Bạch Vân), phía sân trước có một gò mối lớn bằng 5, 6 chiếc đệm, trên có tre gai mọc, choán cả một khoảng đất rộng. Đã mấy lần ni sư muốn đốn bỏ, dọn dẹp cho có đất trống để trồng bắp, đậu, nhưng hễ ai vừa tới gần gò mối, định đốn cây, phát cỏ thì đều cảm thấy xây xẩm mặt mày và nhức đầu hết. Riết rồi mấy người Thượng (làm mướn) sợ quá, đứng ngoài xa chắp tay xá xá vào gò mối thôi, chớ không dám đến gần nữa. Họ nói chúng tôi không dám đâu, trong đó có thần thánh ở đừng đụng chạm đến mà chết.
Mấy năm trôi qua rồi mà gò mối cũng không sao phá được. Cuối cùng ni sư mới đem chuyện này trình lên cố Hòa thượng xin giúp đỡ vì rất cần đất trống để trồng trọt hoa màu. Lúc ấy cố Hòa thượngchưa bế quan, nghe vậy nên ngài mới vào xem tự sự. Sau khi làm phép và chú nguyện xong rồi, đêm đó ngài nằm mơ, vía thấy đi vào trong thất Phương Liên 2, lại gần chỗ gò mối, chỉ tay vào trong bụi tre, bảo:
- Vị nào trong đó hãy đi nơi khác ở, để đất trống cho ni sư trồng trọt, sinh sống và tu hành. Nói xong một lát sau thì ngài thấy từ trong gò mối và bụi tre gai có một con rắn màu đỏ, to bằng cây cột nhà (chắc là rắn lục lửa) bò ra ngó ngài một hồi, đoạn gật đầu mấy cái rồi xuống sông đi mất.
Sáng ra ngài nói cho ni sư nghe và bảo rằng gò mối nay đã phá được rồi. Trước sự hiện diện của ngài mấy người Thượng mới dám đến đốn tre và bang bằng gò mối. Bấy giờ mới khám phá ra một việc hi hữu, ấy là…trong gò mối này có một bụi “Đơn quy” rất lớn (là một vị thuốc bắc đặc biệt bổ máu – bồi bổ tổng quát) rất quý báu, củ to bằng bắp tay, bắp chân (mấy trăm năm rồi nên củ mới lớn như vậy) – nhiều đến nỗi đem về phơi cả mấy chiếc đệm mới hết.
Cố Hòa thượng nói với ni sư rằng:
- Hèn chi mà không ai phá được cái gò mối này hết. Té ra trong đó tàng ẩn vị thuốc quý này nên mới có rắn thần canh giữ. Đây cũng là cái duyên của con đó, hãy giữ kỹ mấy củ đơn quy này mà dùng từ từ. Sau này con còn nhờ nó lắm. (Quả thật vậy, nhờ uống đơn quy này mà ni sư từ từ hết bịnh phong thấp và sốt rét rừng  sau phát ra tướng mập mạp, to con và hồng hào tựa như Di Lặc Bồ tát. Đây là lời của một phật tử từ bên Mỹ về thăm ni sư, khi trở qua kể lại cho Bảo Đăng nghe như vậy).
Còn nhiều chuyện lạ lùng kỳ bí khác nữa nhưng vì giới hạn của quyển sách nên Bảo Đăng xin được ngưng lại ở nơi đây để chuẩn bị bước qua một chương kế tiếp.
E. TỨ CHÚNG QUY HƯỚNG VÀ VÂN TẬP
Từ khi ngài rời khỏi Huệ Nghiêm và lìa xa các sự ồn ào của miền phố thị về ẩn cư tu tập ở nơi đây. Tháng lại, ngày qua ngài cảm thấy đã thâu lượm được nhiều kết quả tốt đẹp và tiến bộ hơn trên con đường tu tập của mình, tâm trí thanh tịnh, an vui không còn bận lòng lo nghĩ đến bất cứ chuyện chi nơi chốn phồn hoa, đô hội.
Sau các thời khóa công phu rồi, ngài lo soạn, dịch kinh sách, hoặc đôi khi rỗi rảnh rảo bước kinh hành, ngày xem hoa nở, tối nhìn trăng lên, vui cùng kinh, kệ, mõ chuông và đắm chìm thân, tâm vào trong câu niệm Phật, năm tháng trôi qua, gần như quên hẳn đi tất cả người quen nơi chốn bụi hồng qua ý thơ sau đây:
Trời xanh xanh,
Trăng thanh thanh.
Xa đôi hạt trắng lướt bay nhanh,
Gió nhẹ thổi rung cành.

Trên mặt nước,
Bóng trăng in.
Dịu dàng buông ánh sáng lung linh,
Một niệm dứt bao tình.

Dưới mái tranh,
Giữ đạm thanh.
Chim chiều luyến ổ lượn chung quanh,
Nguyện lòng tìm đến bến vô sanh.
Nương nép bóng cha lành,
Một dạ quyết tu hành.
Hương Quang Thất
Vô Nhất tăng
Thích Thiền Tâm
Chúng ta nhận thấy gì qua bài thơ “tuyệt tác” này của cố Hòa thượng?
- Có thể nói rằng với bài thơ trên đây, ngài đã dung hợp được giữa tâm mình cùng với cảnh vật (tâm, cảnh hợp nhất), một sự phối hợp tuyệt diệu phi thường mà chỉ có ở nơi các bậc chân tăng đã xả được duyên trần, ẩn thân tu hành nơi A lan nhã như ngài mới có được mà thôi, ý thơ thanh thoát, đầy đạo vị cao siêu rất đáng nên bái phục.
Và càng bái phục hơn nữa qua ý thơ kế tiếp đây:
Trăng chiều long lanh khe nước bích,
Gió đưa thoáng động nhánh hoa đào.
Rừng núi xanh xanh cây phủ khắp,
Lòng nương mây bạc vút bay cao.
Liên Du Vô Nhất
Thích Thiền Tâm
Thiệt là không còn có cảnh nào đẹp hơn ở nơi đây nữa, ta hãy mường tượng ra bóng dáng của một tăng nhân, cô thân đơn độc, đứng bên sườn đồi, nhìn xuống ánh trăng chiếu long lanh trên giòng nước xanh(của con sông Đại Ninh) đang lững lờ trôi trong lặng lẽ, và rồi một cơn gió nhẹ thoáng qua làm cho khẽ động nhánh hoa đào, người tăng sĩ với vóc dáng thanh thanh, cao gầy như thân trúc Thích Thiền Tâm đang đứng im một mình trên đồi vắng, phóng mắt nhìn xa ra chốn rừng núi xanh xanh (chớ không có nhìn xem xe hơi, nhà lầu và các cảnh ồn ào nơi đô hội như các bạn đồng hành) và gởi tâm hồn mình vào trong áng bạch vân kia mà bay vút lên không của khung trời xanh bao la cao rộng.
Đây mới thật đúng là cảnh “Cao nhân nơi đầu núi” vậy. (Trước kia Bảo Đăng tôi tình cờ đọc được bài thơ của một vị Thượng tọa rất có tên tuổi tựa đề là: Cao nhân nơi đầu núi – trong khi ngài đang trụ trì ở một ngôi chùa to tại thành phố Sài Gòn! Lúc đó Bảo Đăng tôi phục thầy lắm, nhưng sau này lớn lên, làm Phật sự và có được ít nhiều hiểu biết (nơi đường đạo) rồi thì lại nghĩ rằng”: Thầy ở Sài Gòn không thì làm thế nào mà biết đến cái cảnh “Cao nhân nơi đầu núi” được.
Nay nhân đọc thơ của cố Hòa thượng Liên Du Vô Nhất Đại sư – Thích Thiền Tâm rồi thì Bảo Đăng tôi mới biết rằng: thế nào mới (thiệt là) một“Cao nhân nơi đầu núi” và “Cao nhân nơi thành thị” vậy). Bởi vì phải thiệt có ở tu chốn đầu non, rừng xa núi vắng qua nhiều năm dài, tháng rộng như cố Hòa thượng Thích Thiền Tâm đây thì mới thấu đạt được cái thanh tịnh của thân tâm mình như thế nào, rồi sau đó mới có thể dung hợp được tâm mình vào trong cảnh vật (tức là lý, sự dung hợp – Tâm là lý – Vật là sự)như ý của bài thơ sau:
Thong thả chốn đầu non,
Trăm hoa tợ phấn son.
Đàn trúc nghe réo rắt,
Thông già giọng véo von.
Ráng đỏ vừa trông vầng nhật lặn,
Kế lại nhìn xem bóng nguyệt tròn.
Thanh tịnh tấm lòng không tưởng nghĩ,
Sắc, tài, danh, lợi, cháu cùng con.
Liên Du Vô Nhất
Quả đúng là một vị tôn sư đầy đủ thật tài, thật hạnh, ngôn hành tương ứng chẳng có trái nhau. Xứng đáng với hai chữ “Hiền Tăng” mà được mọi người tôn xưng (cho cố Hòa thượng) trong thời buổi cận đại này.
Qua thi ý thanh cao, thoát tục của các bài thơ trên, ta nhận thấy quả thật thân, tâm của cố Hòa thượngsau những năm tháng dài ẩn tu nơi miền Lan nhã này đã được hoàn toàn thanh tịnh.
Sách có câu rằng:
- “Xem thi văn cũng có thể biết được tánh con người”.
Trường hợp của cố Hòa thượngđây cũng thế. Sự thanh tịnh trong nội tâm ngài đã được bộc lộ ra một cách rõ ràng ở nơi thi tứ, mà nếu ai là người tinh tế và “biết xem thơ” ắt nhiên không sao nén được những tiếng chắc lưỡi khen vùi qua các áng thi văn tuyệt vời và rất ư là “A lan nhã” này vậy.
Hơn một năm dài trôi qua, ngài một thân, một mình an ẩn nơi chốn núi rừng xa vắng, ngày đêm bạn cùng kinh kệ, mõ chuông và mây ngàn, gió núi, gần như quên hẳn đi tất cả người quen nơi chốn bụi hồng.
NHƯNG...
Mặc dù một bậc hiền tăng như ngài lúc nào cũng chỉ muốn yên ẩn tu hành, giữ đời đạm bạc, an vui, trong câu niệm Phật và cực lực dụng công để chờ cho đến ngày 30 tháng chạp của cuộc đời mình rồi nhắm mắt theo Phật về Tây, biệt đường sanh tử... ấy thế mà cũng vẫn không sao tránh được dư nghiệp của mình.
Bởi vì cũng giống như cảnh: Một cái trống to (trống chầu) dù cho có đánh lên từ bên trong một căn nhà đã đóng kính hết các cửa nẻo nhưng âm thanh của nó cũng vẫn vang dội được ra bên ngoài và thấu suốt đến tận nơi xa.
Cá nhân và phong thái của Hòa thượngThích Thiền Tâm ở đây cũng tương tự như vậy. Một bậc chân tăng đầy đủ tài đức như ngài mà muốn cho bặt ăm, bặt tích.
Hơn một năm trời nghe ngóng và cầu tìm như thế trôi qua. Và rồi “tiếng trống đưa tin” của cố Hòa thượng từ miền Sơn cước Đại Ninh đã dần lan xa khắp cả mọi nơi, vang tận đến chốn Sài thành. Hàng Phật tử chơn tu và các môn đồ từ nay đã bắt đầu nghe và biết đến hai chữ ĐẠI NINH là tên của một vùng rừng núi hẻo lánh, xa xôi của miền cao nguyên Đà Lạt, một địa danh mà từ trước đến nay hoàn toàn xa lạ đối với các người dân nơi chốn thị thành, nhưng kể từ đây nó hằng được nhắc nhở và để ý đến nhiều hơn … nhiều hơn nữa, bởi vì ở nơi đó có tàng ẩn tung tích của một bậc thạc đức, chân tu:
- Hòa thượng THÍCH THIỀN TÂM, nguyên đốc giáo của Phật học viện Huệ Nghiêm, mà đại danh của ngài từ lâu đã được các hàng Phật tử xuất gia lẫn tại gia thảy đều mến thương, kính trọng …
Trên quốc lộ 20 Sài Gòn, Đà Lạt, các xe đò đưa khách đi về từ đây cũng đã bắt đầu ngừng lại thường xuyên hơn nơi đầu cầu Đại Ninh để đổ xuống nhiều loạt hành khách khác nhau, đủ mọi thành phần trong xã hội, và thiểu số người Kinh cư ngụ tại địa phương “đèo heo hút gió” này nay cũng dần cảm thấy được bớt đi niềm cô đơn cố hữu của mình qua sự rộn rịp tới lui và hỏi thăm đường sá, từ nơi các người khách mới, như là:
- Xin vui lòng chỉ cho chúng tôi lối nào để vào được đến nơi ở của Thượng Tọa Đại Ninh.
Hoặc là:
- Các bác có biết Thượng tọa Thiền Tâm ở chỗ nào trong ấp này không? V.v...
Càng ngày tin đồn càng lan rộng ra khắp cả các nơi và mọi người Phật tử ai cũng đều biết được rằng Thượng Tọa nguyên đốc giáo của Phật học viện Huệ Nghiêm Thích Thiền Tâm hơn một năm qua, đã một thân, một bóng “hẩm hút phận nghèo” về ẩn tu tại vùng sơn cước Đại Ninh, sống bơ vơ, đơn độc trong hoàn cảnh “tự lực cánh sinh” nơi miền núi rừng, sơn dã.
Các môn đồ Phật tử sau khi nghe, biết được như thế ai cũng đều bùi ngùi, chắc lưỡi, thương cho một bậc chân tu đã can đảm cam chịu cảnh tự dập vùi, xa lánh chốn phồn hoa. Vả lại, cũng đã hơn một năm trôi qua rồi, chẳng những vắng đi bóng ngài, vắng nghe lời dạy đạo, khuyến nhắc tu hành của ngài không thôi đâu mà còn nhìn ra ngoài hoàn cảnh xã hội hiện tại rối ren, rồi ngó lại trong đường đạo nữa, thấy một số lớn quý thầy lãnh đạo mang trọng trách “Như lai sứ giả” trên mình mà hướng dẫn đạo pháp một cách sai lầm, nhuộm pha toàn là màu sắc đấu tranh, chánh trị, phe nhóm hơn thua, giành giựt lợi danh lẫn nhau … mà lắc đầu ngán ngẩm.
Họ đã cảm thấy “thấm thía” mùi đạo, mùi đời rồi. Và bây giờ hơn bao giờ hết, mọi người Phật tử chơn tu lại bắt đầu nhớ đến Thượng Tọa Thích Thiền Tâm, một bậc đạo sư thuần túy, chân chính tu hành đang ẩn tu nơi miền rừng xa, núi vắng. Họ đem ra so sánh và so sánh. Ai nấy cũng đều cảm thấy nhớ nhung đến Hòa thượng thật nhiều.
Từ đây, trên con đường dẫn về vùng sơn cước Đại Ninh, dập dìu bước chân người đi, kẻ đến. Từ chúng ta bắt đầu quy hướng về nơi Thượng Tọa Đại Ninh, quyết lòng tựa nương nơi đức độ của ngài để làm kim chỉ nam trên bước đường tu học, và tìm cầu giải thoát.
Vùng A lan nhã Phú An từ nay không còn được yên ổn như xưa và Thượng Tọa Đại Ninh Thích Thiền Tâm cũng không còn được an thân để tịnh tu như các thời gian qua nữa. Ngài cảm thấy bận rộn và lo lắng thêm nhiều.
PHẦN VI: ĐẠI NINH ĐẠO TRÀNG HƯƠNG NGHIÊM TỊNH VIỆN
Bắt đầu từ tháng 8/1969 đến sau tháng 7/1970, nương theo danh đức của ngài, một số chư Tăng Ni và Phật tử từ từ quy hướng về thôn Phú An là nơi trụ xứ của Thượng Tọa Đại Ninh Thích Thiền Tâm để định cư và tu tập.Vì đã dự biết trước rồi nên ngài cũng không mấy chi ngạc nhiên cho lắm. Đối với chư Tăng Ni mới đến ở, như vị nào đã có đầy đủ phương tiện tự túc rồi thì thôi, còn nếu như có vị nào đến thưa cùng ngài cầu xin giúp đỡ bước đầu thì ngài đều sẵn lòng tùy hỷ và chu cấp đất đai để xây dựng am cốc tu tập, trồng tỉa hoa màu, tự lực cánh sinh (cũng như ngài vậy).
Dần dần khắp mọi nơi trong thôn Phú An chỗ nào cũng có am thất của chư Tăng, ni, Phật tử dựng lên để an cư và tu tập.Vùng đất tiêu sơ ngày nào của hơn một năm trước đây nay đã hoàn toàn đổi thay bộ mặt và trở thành một “làng tu” nổi tiếng trên con đường đi Sài Gòn, Đà Lạt mà mỗi khi nhắc đến ai nấy cũng đều biết danh hết cả, nhất là mấy người tài xế và lơ xe hành khách chạy trên các lộ trình này.
Khoảng tháng 8/1970, vì nhận thấy tứ chúng đã vân tập về đông đảo, để hưng khởi và điều hòa pháp sự trong vùng vả lại vì cũng thể theo lời thỉnh cầu của tất cả nên ngài ra thất và bắt đầu chuẩn bị việc kiến lập một Tu viện để cho đại chúng có được một nơi chánh thức tề tựu về tu học và tụng giới (vào mỗi nửa tháng) cùng cử hành các đại lễ truyền thống trong đạo giáo như Phật đản, Vu lan,...
Ngài chọn một khu đồi cao, rộng và có vị trí tốt trong các phần đất mà ngài đã khẩn hoang trước kia để xây cất tu viện. Hai người bạn đồng song, cố giáo của ngài là Hòa thượng Thích Bửu Lai (Cần Thơ) và Hòa thượng Thích Bửu Huệ (Phật học viện Huệ Nghiêm – Sài gòn) được ngài gởi thư thông báo và thỉnh đến để cùng hợp sức với ngài chú nguyện cùng làm lễ đặt viên đá đầu tiên hầu cho ngôi Tịnh viện tương lai sớm được thành hình, (Trong đạo gọi là “Đức chúng như hải”, tức là muốn hưng khởi lên một Phật sự lớn, hoặc là khi mở nên một đạo tràng thì phải nhờ nơi sức đại lực của chúng tăng), nhất là ở tại một vùng đất linh thiêng vừa mới được khai phá này.
Để cho Phật sự được chóng thành tựu nên trong các khóa lễ hằng đêm ngài đều cầu nguyện chư Hộ pháp gia hộ và khởi tâm tưởng nghĩ đến chư thần tại địa phương như Sơn thần, thổ địa v.v… ám trợ cho mọi việc được thuận duyên, suôn sẻ. Việc ngài mong muốn được đáp ứng như sau:
- Đêm đó ngài mơ thấy vị sơn thần ngày nào cũng với vài ba vị khác nữa (thổ địa, thành hoàng) khăn áo chững chạc đến thăm, cùng ngài trò chuyện hứa là sẽ khiến cho có người giúp đỡ … và quả đúng như vậy:
- Nguyên ở vùng này có một đại đội công binh kiến tạo (của quân đội) đang thi hành các công tác trùng tu kiều lộ, chỉ huy trưởng đoàn công binh này là một quân nhân Phật tử tên VÂN, cấp bậc Đại úy – có lẽ do nơi sự xui khiến của sơn thần nên hôm đó vị sĩ quan ấy bỗng dưng lái xe JEEP tìm đến thăm Hòa thượng, thưa hỏi đạo lý và trình bạch lên một số chuyện riêng để cho ngài nguyện cầu giúp đỡ (Sau này các việc mà y cầu xin đều được thành tựu hết).
Trong khi trò chuyện, được biết ngài đang có ý định xây cất tu viện, người sĩ quan Phật tử này phát tâm thưa rằng:
- Bạch Thượng tọa, sẵn dịp Đại đội mà con chỉ huy đang có công tác kiến tạo trong vùng này, với khả năng trách nhiệm cùng với các phương tiện cơ giới sẵn có (như xe ủi đất, xe làm đường, xe cần trục v.v…) nếu như Thượng tọa cần đến thì con sẽ sẵn sàng và vui lòng giúp đỡ.
Hòa thượng rất mừng khi được nghe những lời đề nghị như vậy.
Và rồi các thời gian kế tiếp sau đó, cũng nhờ ở nơi người quân nhân Phật tử hữu tâm này, cho nên công việc dọn dẹp cây cỏ, ủi bằng phẳng đất đai, tạo lập đường sá, cầu cống cùng với các công trình xây cất khác đều được tiến triển khả quan (Con đường đất đỏ rộng rãi, cầu cống v.v…. Từ ngoài quốc lộ dẫn vào đến tu viện dài hơn 3 cây số đều do vị sĩ quan công binh này kiến tạo hết. Đây là lý do chánh khiến ngài cho dựng lên miếu thờ sơn thần và thổ địa ở gần nơi tịnh thất của ngài để cảm niệm công ơn đã khiến xui cho có người giúp đỡ).
Đến đầu năm 1971, tu viện được hoàn thành, thanh nhã, trang nghiêm, được Hòa thượng đặt tên là HƯƠNG NGHIÊM TỊNH VIỆN và ngài bắt đầu thành lập đạo tràng Tịnh Độ tại nơi đây để hoằng dương về Tịnh tông hầu nối tiếp công nghiệp Tịnh độ của các bậc đại sư xưa cùng báo đền ơn đức Tam Bảo.
Kể từ đó trở đi, nơi vùng “Phú An” thôn hoang sơ trước kia, đêm đêm những tiếng kinh kệ, mõ chuông(của chư tăng ni, Phật tử tu niệm tại tịnh thất) vang đều lên khắp chỗ, tiếng đại hồng chung và tiếng trống bát nhã của tu viện cúng đều đặn ngân lên trong những đêm dài, thanh âm hùng dũng vang tỏa khắp nơi, phá tan đi mọi vẻ tiêu điều lạnh lẽo của chốn núi rừng hơn một năm về trước, mang lại một niềm tin vững chắc và một sinh khí mới cho toàn thể Phật tử xa gần.
Đạo tràng Đại Ninh và Hương Nghiêm tịnh viện đã được thành hình, Pháp môn Tịnh Độ từ nay sẽ được chấn chỉnh lại và truyền lan khắp chốn. Hòa thượng Đại Ninh THÍCH THIỀN TÂM vừa mừng và cũng lại vừa lo. Bởi vì ngài biết chắc rằng trong những thời gian tới đây, đời mình sẽ còn phải chịu thêm nhiều nổi gian truân mới nữa.
Từ khi tu viện thành hình và đạo tràng đã được thành lập, Phật sự tại địa phương cũng đã được điều hòa rồi, vì muốn cho tông phong ngày thêm vinh chấn ngõ hầu khuyến khích đại chúng phát tâm dõng mãnh hơn trên bước đường tịnh độ nên một lần nữa Hòa thượng cùng với hai bạn đồng song là Hòa thượng Bửu Lai, Bửu Huệ, khai giảng một khóa tu tập “Tịnh độ chuyên biệt”, thuần túy dạy và thực hành riêng về giáo môn Tịnh Độ. Khóa học kéo dài gần đến 3 năm, đào tạo được nhiều vị tăng sư Tịnh Độ và khiến cho rất nhiều Phật tử khác phát khởi nguyện tâm, một lòng niệm Phật, cầu nguyện một đời đới nghiệp vãng sanh, lên ngôi bất thối, đông không kể xiết.
Các Phật tử tu theo Pháp môn Tịnh Độ nhưng vẫn còn ngờ vực trước kia, nay thảy đều tỏ ngộ được tông chỉ và chỗ quy hướng của Tịnh Tông nên họ rất vui mừng và phấn khởi (Quyển sách Niệm Phật Thập Yếu của ngài soạn ra trước kia nay lại càng được phổ cập hơn nữa và trở thành là một quyển sách gối đầu cho các người tu theo giáo môn Tịnh độ mãi cho đến bây giờ, trong quốc nội cũng như ngoài quốc ngoại). Mọi người đều hoan hỷ tán thán lên nói rằng:
- Từ đây, qua sự hoằng hóa về Tịnh tông của Vô nhất Đại sư Thích Thiền Tâm Hòa thượng, đóa sen lành Tịnh Độ đã tỏa ngát được hương thơm nơi vùng trời cao nguyên đất Việt và sẽ còn lan xa mãi cho đến về sau cùng đi đến tất cả những nơi nào mà ở đó đã và đang có các người con của Phật phát nguyện tâm quy hướng về nơi Cực lạc, dự vào chín phẩm sen vàng của miền An dưỡng.
Thanh danh của Hòa thượng Tông chủ Tịnh độ Đại Ninh Thích Thiền Tâm và đạo tràng Tịnh Độ của ngài một lần nữa được loan truyền khắp cả mọi nơi. Các bậc đại sư trong Phật học đường Nam Việt khi xưa (còn sót lại) như Hòa thượng Thích Thiện Hòa v.v... đều rất vui mừng và an ủi khi thấy Tịnh tông đã được trùng hưng, xứng hợp với căn cơ của tất cả mọi người.
Mặc dù được nhiều thanh danh và vinh dự như thế nhưng thâm tâm của ngài cũng chẳng lấy đó làm điều vinh danh hay phát ý vui mừng. Là một vị đại tăng đã từng trải lâu năm trong đường đạo, nên ngài cũng dư biết rằng sớm, muộn gì mình cũng không sao tránh khỏi được cái cảnh “trâu cột ghét trâu ăn” cùng với các sự tị hiềm, ganh ghét khác, bởi vì càng cao danh vọng thì càng nhiều gian nan, đó là lẽ thường, xưa nay vẫn vậy.
Hơn nữa, lúc nào ngài cũng nhớ nằm lòng bài kệ khi xưa của Bồ tát dạy:
“Tuy là có được chút ít thanh danh nhưng kèm theo đó cũng vẫn còn phải vương mang ít nhiều dư nghiệp” … vì vậy mà tâm của ngài lúc nào cũng vẫn điềm nhiên, lợt lạt đối với lợi danh cùng những lời khen chê phù phiếm, hão huyền.
Là một bậc thạc sư về Phật học, nên hơn ai và hơn bao giờ hết ngài biết rất rõ các lời Phật đã từng huyền ký lại trong kinh điển về tình trạng của người tu trong thời buổi mạt pháp sau này rằng:
- “Sau khi ta (Phật) nhập niết bàn rồi, tám trăm năm sau, hàng xuất gia phần nhiều tham trước danh lợi, giải đãi, buông lung (1), trong trăm ngàn người tu, chỉ có một ít người đắc đạo.
Chín trăm năm sau, trong giới tăng ni, phần nhiều là hạng nô tỳ hạ cấp bỏ tục xuất gia. Một ngàn năm sau, các tỳ kheo nghe nói pháp bất tịnh quán, pháp sổ tức, buồn chán không thích tu tập, trong trăm ngàn người tu chỉ có một ít người được vào chánh định. Từ đó về sau (2), lần lần hàng hàng xuất gia hủy phá giới luật, hoặc uống rượu, hoặc sát sanh, hoặc đem bán đồ vật của Tam bảo, hoặc làm hạnh bất tịnh, nếu có con trai thì cho làm tăng, con gái thì chi làm ni, chỉ còn có một số ít người biết giữ giới hạnh, gắng lo duy trì và hoằng dương chánh giáo.
Khi áo cà sa của chư Tăng ni biến thành sắc trắng, đó là triệu chứng của Phật giáo sắp diệt” … (Kinh Ma Ha Ma Da).
Ghi chú:
(1) Giải đãi, buông lung: Biếng nhác tu hành, không tuân theo lời Phật dạy, hủy phá giới luật trong đạo, chạy theo duyên đời chớ không chịu lo tu thân, tâm, giới huệ.
(2) Tức là 1000 năm sau khi Phật nhập niết bàn (bắt đầu thời kỳ mạt pháp) cho đến bây giờ.
Lại nữa trong kinh “Pháp Diệt Tận” Đức Thế tôn cũng có dạy rằng:
- “Về sau, khi pháp của ta sắp diệt, nơi cõi ngũ trược này, tà đạo nổi lên rất mạnh, lúc ấy có những quyến thuộc của ma trá hình vào làm sa môn để phá rối đạo pháp. Họ ăn mặc y phục như người thế gian, ưa thích áo cà sa ngũ sắc, ăn thịt uống rượu, sát sanh, tham đắm mùi vị, không có từ tâm tương trợ, lại ganh ghét lẫn nhau.
Bấy giờ các vị Bồ tát, Bích Chi, A La Hán vì bản nguyện hộ trì Phật pháp nên hiện thân ra đời làm bậc sa môn, các vị này tu hành tinh tấn, đạo hạnh trang nghiêm, được mọi người kính phục. Các vị ấy có đức thuần hậu, từ ái, nhẫn nhục, ôn hòa, giúp đỡ kẻ già yếu cô cùng, hằng đem kinh tượng khuyên người phụng thờ, đọc tụng, giáo hóa chúng sanh một cách bình đẳng, tu nhiều công đức, không quản ngại chi đến việc tổn mình, lợi người.
Khi có những vị sa môn đạo đức như thế, các Tỳ kheo ma kia ganh ghét, phỉ báng, vu cáo cho những điều xấu, dùng đủ cách lấn áp, xua đuổi, hạ nhục khiến cho các vị sa môn ấy không được ở yên.
Từ đó các ác Tỳ kheo kia càng lộng hành, không tu đạo hạnh, bỏ chùa chiền điêu tàn, hư phế, chỉ lo tích tụ tài sản riêng tư, làm các nghề không hợp pháp trong đạo để sinh sống, đốt phá rừng núi làm tổn hại chúng sanh không có chút từ tâm.
Lúc ấy có nhiều kẻ nô tỳ hạ tiện xuất gia làm tăng ni, họ không đạo đức, dâm dục, tham nhiễm, tăng ni, nam nữ sống chung lẫn lộn, Phật pháp suy vi chính là do bọn này.
Lại có kẻ trốn phép vua quan, lẫn vào cửa đạo, rồi sanh tâm biếng nhác không học, không tu. Đến kỳ tụng giới (bồ tát) trong mỗi nửa tháng, họ chỉ lơ là gắng gượng, không chịu chuyên chú lắng nghe. Nếu có giảng thuyết giới luật, họ lược trước, bỏ sau không chịu nói ra cho hết.
Nếu có đọc tụng kinh văn, họ không rành câu, chữ, không tìm hỏi nơi bậc cao minh, tự mãn cầu danh, cho mình là giỏi. Tuy thế, bề ngoài họ cũng làm ra vẻ đạo đức, thường hay nói phô (tự khoe mình) để hy vọng mọi người cúng dường.
Các Tỳ kheo ma này sau khi chết sẽ bị đọa vào địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh trải qua nhiều kiếp, khi đền tội xong, họ sẽ sanh vào làm người ở nơi biên địa, chỗ không có ngôi Tam bảo.
- Trong kinh “Đại Bảo Tích”, Phẩm Tam tụ luật nghi, Phật cũng có bảo cùng với ngài Ma Ha Ca Diếp rằng:
Đời vị lai có Tỳ kheo chúng,
Lòng vội vàng, nhiều giận nhiều hờn.
Bức não người chơn chánh xuất gia,
Đã phát tâm Bồ đề vô thượng.
Đây là hạng đáng kinh, đáng sợ,
Bài bác luôn kinh điển đại thừa.
Không có lòng lãnh thọ, kính tin,
Giáo pháp của Thích Ca Văn Phật.
Họ giận hờn cùng nhau ganh ghét,
Đối với nhau làm những khổ nàn.
Lại rêu rao bày lỗi của nhau,
Tiếng xấu xa truyền lan khắp chỗ.
Đem việc xấu cáo vu người khác,
Lỗi của mình thời thẹn giấu che.
Người hiền lành thế yếu, ít người,
Kẻ tà ác chúng đông thế mạnh.
Thấy như thế biết chánh pháp suy,
Nên người ác thêm nhiều thế lực.
Những đệ tử đáng thương của Phật,
Chính chi cho các Thiện Tỳ kheo.
Phải dắt nhau tìm chỗ, tìm nơi,
Lánh kẻ ác ở nơi an ổn” …
Do vì biết như vậy và bằng vào một thân tâm minh tịnh cùng với sự hiểu biết sâu xa do trí huệ phát sanh sau những năm dài nhập thất, tịnh tu nơi miền thanh vắng, ngài thấy rất rõ ràng rằng:
- Kể từ nay cuộc đời còn lại của ta ắt sẽ phải chịu thêm ít nhiều giông tố, sống gió nữa. Cái câu “Còn chút nghiệp phải mang” mà Phật dạy năm xưa, nay nó đã bắt đầu lố dạng lên, và le lói ở cuối chân trời rồi. (Và quả thật như vậy,sau đó ít lâu ngài bị không biết bao nhiêu là những sự bằm dập, nhục nhằn – khó tả cho hết được – cũng bắt nguồn từ các sự ganh tị, giành giựt uy tín, ảnh hưởng và lợi danh trong hàng môn đệ với nhau mà sanh ra hết).
Trong những khi rỗi rảnh, sau các thời khóa tịnh tu, ngài mới suy nghĩ cũng đem các lời Phật dạy ở trên để kiểm chứng lại hoàn cảnh hiện tại của Phật giáo và chính ngay nơi bản thân mình ở tại đạo tràng này trong mấy năm qua và ngài nhận thấy rằng:
- Kể từ khi tứ chúng vân tập về đây để nương theo mình tu học, mình cũng đã vì họ mà thành lập ra Tu viện và khai mở đạo tràng, hoằng hóa Tịnh tông. Thời gian qua, thanh danh của mình càng nổi bật bao nhiêu, càng được Phật tử quý kính bao nhiêu thì mình càng bị họ ganh ghét, vu cáo và phỉ báng bấy nhiêu, trước mặt mình thì họ dạ dạ, thưa thưa nhưng sau lưng thì họ lại không tiếc những lời rẻ khinh, mạ lỵ.
Ngài tự hỏi:
- Vì sao mà họ lại đối với ta tệ bạc như vậy. Trong khi ta là thầy dạy học cho họ và họ lại là đệ tử của ta?
Và rồi ngài cũng tự hiểu rằng:
- Sở dĩ họ đối với ta như thế là vì nếu có dìm ta xuống được thì họ mới nổi lên – chỉ đơn giản như vậy mà thôi chớ không có điều chi khác nữa.
Rồi ngài hồi tưởng lại khoảng thời gian mấy năm về trước khi ta còn đơn thân an ẩn tu hành, lúc đó ta an nhàn, thong thả và thanh tịnh bấy nhiêu, thì giờ đây ta bị bận rộn, ràng buộc bấy nhiêu. Danh mà chi, lợi làm gì, cung kính quý trọng hay hủy báng, khinh chê, hỏi để rồi có được ích lợi gì cho con đường giải thoát theo như sở nguyện của ta?
Ta đã từ bỏ hết các chức vị, vinh dự mà Giáo hội trao cho ta cùng với các sự cung kính, cúng dường từ nơi các hành Phật tử để về ẩn cư tu niệm tại miền rừng núi này rồi. Đời ta còn lại không lâu, ta nay đâu có cần chi trong vòng trần tục, lợi danh này nữa.
Ngài buồn lắm và ngài muốn bế quan, nhập thất trở lại như xưa qua ý của bài thơ sau:
Giấc hòe tỉnh ngẫm suy cuộc thế,
Bóng nguyệt ngân (1) đổ xế cành ngô.
Bồng tiên cảnh đẹp mơ hồ,
Niềm nhân sự ngẩn ngơ sanh khái cảm.
Tri âm ảnh tuyệt linh cầm đoạn,
Vân tự chung hồi lạc quốc du.
Lắng chuông khuya mà quyết chí tiềm tu,
Tưởng sen nở thiên thu miền Cực lạc.
Vùng ngũ trược cõi trời, người đổi khác,
Chưa vô sinh e dễ lạc mê trần.
Bâng khuâng bể giác non thần.
Liên Du, Vô Nhất.
Thích Thiền Tâm.
Ghi chú:
(1) Bóng nguyệt ngân: Ý nói ánh trăng trắng sáng cũng như màu bạc vậy.
(Để chư Phật tử, đạo hữu rõ thêm về ý nghĩa của bài thơ tuyệt vời này. Bảo Đăng tôi xin lược ý như sau:
- Câu 1và 2 ý nói: Nửa đêm thức giấc, ngồi yên một mình mà ngẫm nghĩ và suy xét lại về những lẽ thịnh, suy, thành, bại, v.v… của cuộc đời này (và của đời mình nữa), miên man chìm trong các sự ngẫm xét đó, đến chừng giật mình lại ngó ra ngoài sân thì ánh trăng bàng bạc đã xế bóng (tức là gần sáng) khỏi ngọn đông rồi (tức là cây ngô đồng).
- Câu 3 và 4 ý nói: Nhìn ra bên ngoài, từ các cây cối, hoa cỏ v.v... dưới ánh trăng khuya thanh vắng (như lòng ta thanh vắng) ảnh hiện ra vẻ đẹp mơ hồ như một cảnh thần tiên, rồi bỗng chợt nghĩ đến tình đời đen bạc, tình đạo (đời nay) chua cay, lòng tự nhiên thấy ngẩn ngơ và bùi ngùi cảm khái cho thế thái nhân tình.
- Câu 5 và 6 ý nói: Tất cả những gì làm bận lòng ta như các người quen, các ước vọng v.v… ta đã và sẽ chặt đứt cùng đập gãy hết. Lắng nghe tiếng chuông chùa từ xa vọng lại mà tưởng chừng như hồn mình đang bay về nơi Cực lạc cõi trời Tây.
- Câu 7 và 8 ý nói: Lắng nghe tiếng chuông khuya trầm bổng, thánh thoát vang lên như thế mà lòng ta càng thêm quyết chí niềm tu (ẩn tu). Mơ tưởng một ngày nào kia sẽ được theo Phật về miền Cực lạc dự vào trong chín phẩm tòa sen vàng.
- Câu 9 và 10 ý nói: Cõi ta bà đầy đủ ngũ trược (ác thế) này, tâm tính con người hung dữ, ác độc (quá)khác hẳn với tâm của các bậc chân tăng, hiền thánh khi xưa – Ta nay là phàm tăng chưa chứng đắc được (vô sinh nhẫn lực) nếu như không sớm nhập thất lại e sẽ dễ bị lạc luôn vào trong chốn mê trần. Càng nghĩ lòng càng thêm thấy bâng khuâng, muốn xả bỏ hết tất cả để nhập vào trong biến giác, non thần nơi Phật quốc mà thôi.
Do vì thấy, nghe, nhận chịu (nhiều nỗi nhục nhằn) và cảm nghĩ như thế cho nên vào cuối năm 1971, ngài mới tuyển chọn ra từ trong các học chủng (chư tăng đang nương ở tu học tại tu viện và trong đạo tràng) được vài vị tương đối “có tâm” hơn một chút, giao cho trách nhiệm trụ trì Hương Nghiêm Tịnh Viện và trông nom Tịnh thất Hương Quang để ngài bế quan, nhập thất tịnh tu trở lại (cho hợp với tâm nguyện của mình).
Kế tiếp sau đó ngài trở vào nhập thất lại tại Tịnh xứ Phương Liên.
B. PHƯƠNG LIÊN TỊNH XỨ MẬT TỊNH ĐẠO TRÀNG
Đây là một khu tịnh xứ mà cố Hòa thượng mới kiến lập ra sau này, (vào khoảng giữa năm 1971) cách Hương Quang tịnh thất (là căn thất đầu tiên của ngài tại Phú An) và Hương Nghiêm Tịnh viện chừng 300 thước. Nơi đây trước sau gồm có 4 gian tịnh thất. Sau này còn lại 3 vì có một căn bằng gỗ bị hư mực phải dỡ bỏ.
Căn thất chánh bằng gạch, lợp tôn (thiết) là chỗ của ngài cư ngụ và dùng làm nơi tịnh tu (ngài bế quan và nhập thất vô thời hạn tại đây cho đến khi viên tịch vào năm 1992). Một căn là nơi ở và chỗ tịnh tu của thị giả kiêm trưởng tử của ngài là ni sư Thích nữ Thanh Nguyệt. Căn thứ ba là nơi tịnh tu của một người đệ tử khác (ni sư Thích nữ Bạch Vân. Sau này vào năm 1973 ni sư này trở về lại Bến Tre là chỗ quê nhà vì già cả và đau yếu nên ngài giao tịnh thất này lại cho ni chúng tại tịnh xứ trông nom, nương ở cho đến bây giờ). Căn thứ 4 là nơi ở tu của một đệ tử khác nữa.
Cả bốn căn tịnh thất này đều do một tay ngài kiến lập ra hết.
Sao gọi tên là Phương Liên tịnh xứ?
- PHƯƠNG LIÊN là một tên khác – trong số rất nhiều tên dùng để gọi và danh xưng cho cõi Cực lạc của đức Phật A Di Đà (Phương là phương hướng, xứ là xứ sở, chỗ nơi  Liên là bông sen. Hai chữ Phương Liên phối hợp lại có nghĩa là Phương hướng có bông sen. Trong Tịnh tông dùng nó để chỉ cho miền An lạc, nơi mà người tu tịnh độ hàng tuần phát nguyện nương về, còn chữ Tịnh xứ đây có nghĩa là chỗ để tịnh tu theo pháp môn tịnh độ).
Khi cố Hòa thượng lập ra miền tịnh xứ mới này là bởi vì ngài đã thấy và biết trước mọi chuyện sẽ xảy ra về sau nên định ý của ngài là sẽ trụ ở tại nơi đây để nhập thất, tịnh tu luôn cho đến ngày mãn kiếp, vì thế mà ngài mới đặt cho tịnh xứ cái tên PHƯƠNG LIÊN để bày tỏ lên tâm niệm của mình theo ý thơ sau đây:
Mấy điệu sen thanh dìu dặt trổi,
Vang thành ánh ngọc nối liên phương.
(Mấy điệu sen thanh)
Liên Du Vô Nhất Đại Sư.
(Liên Phương hay Phương Liên cũng đều đồng chung một tên, một nghĩa là: An dưỡng quốc Cực lạc giới, Di Đà hải hội mà thôi).
Từ dạo ngài giao quyền quản trị Hương Nghiêm tịnh viện cùng Hương Quang tịnh thất lại cho tăng học chúng tại tu viện trông coi và vào nơi tịnh thất Phương Liên để tịnh tu rồi thì ngài rất ít khi lui tới tu viện nữa, chỉ trừ mỗi tháng hai kỳ bố tác (tụng giới) và những đại lễ quan trọng mà thôi, các Phật sự thông thường thì đã có các đệ tử cùng chư học chúng và tăng ni trong vòng trực thuộc của đạo tràng đứng ra đảm trách.
Ngài cũng hạn chế mọi sự tiếp xúc với bên ngoài và dành hầu hết thời giờ vào trong việc trì niệm, quán tưởng, lễ bái cùng phiên dịch, soạn thuật kinh sách để lưu hậu cho hàng tân học sau này có đầy đủ thêm tài liệu tu tiến. Các ngoại duyên và việc hộ thất cho ngài tại Phương liên tịnh xứ đều do trưởng tử là ni sư Thích nữ Thanh Nguyệt quản nhiệm.
Cũng trong thời gian này ngài bị nhiều thị phi, tai tiếng và khẩu thiệt từ nơi các hàng đệ tử ganh tị (với ni sư trưởng tử  là người đã được sự tin yêu, tín cẩn của ngài). Các người đệ tử bất hảo này đã liên kết với nhau, phao vu các tin tức xấu do họ tự đặt ra (bịa đặt) và loan truyền đến các hàng thiện tín để tìm cách phá hủy danh tiếng, uy tín của ngài (cho đã ghét và hả giận). Những sự việc (vu cáo) này nhiều không thể nói hết được. Tuy thế nhưng cũng vẫn còn có rất nhiều các Phật tử, đệ tử khác hiểu biết và tín nhiệm nơi cố Hòa thượng nên họ không vì đó mà tin theo, trái lại họ càng thêm kính quý, mến thương Hòa thượng nhiều hơn nữa qua đức tính từ ái, khoan dung, nhẫn nhịn, đức độ cùng với sự chí tâm tu niệm của ngài.
(Viết đến đây, Bảo Đăng tôi chợt thấy lòng bùi ngùi thương cảm riêng cho cố Hòa thượng, ni sư Thanh Nguyệt và chung cho các bậc đức hạnh, chân tăng trong thời buổi mạt pháp này. Trong hai lần về lại Việt Nam, Bảo Đăng tôi đã gặp, tiếp xúc và phỏng vấn qua một số người đã hiểu biết nhiều về cố Hòa thượng mỗi khi nhắc đến sự quyết tâm tu học để cầu giải thoát của ngài thì ai cũng lắc đầu kính phụ, và khi kể lại các sự việc bị phao vu, bị ám hại, cùng sự nhẫn nhục, chịu đựng của ngài (trong giai đoạn này) cho Bảo Đăng nghe thì hầu hết đều rớm lệ, ngậm ngùi, xót xa cho cố Hòa thượng rất nhiều).
Là một người phật tử học Phật và trực tiếp đứng ra đảm trách tất cả các việc Phật sự tại chùa Pháp Hoa Tucson, Arizona gần suốt 10 năm qua, trong những lần Đại Đức Bổn sư Thích Hải Quang giảng luận kinh pháp, Bảo Đăngcó được nghe và nhớ một thời kinh dạy về sự nhẫn nhục mà thầy đã tuyên giảng lại như sau:
... Bấy giờ ngài Đại Mục Kiền Liên suy nghĩ rằng:
- Đức Thế Tôn rất hy hữu, thành tựu đại bi …tu tập đầy đủ Phật pháp vô sanh, vô diệt mà khai thị, giác ngộ cho các chúng sanh.
Đức Phật biết chỗ suy nghĩ của ngài Đại Mục Kiền Liên nên bảo rằng:
- Đúng như vậy, này Đại Mục Kiền Liên, chư Phật thành tựu tâm đại bi, nếu hàng đệ tử của ta nghe nói đầy đủ nghĩa đại bi ấy chắc tâm sẽ mê loạn không còn vui thích gì nữa. Này Đại Mục Kiền, đừng nói đến đại bi của chư Như Lai, nếu ta tự thuật lại đại bi lúc ta còn hành đạo Bồ tát, ông nghe xong cũng sẽ mê muội luôn, không còn vui thích chi hết.
Ngài Đại Mục Kiền Liên bạch rằng:
- Lành thay đức Thế tôn, nguyện xin nói ra chút ít phần đại bi thuở xưa khi Phật còn hành Bồ tát đạo.
Đức Thế Tôn bảo:
- Nay ông lắng nghe, khéo nhắc bảo thọ trì, ta sẽ vì ông mà nói ra chút ít … Này Đại Mục Kiền Liên, thuở trước ta thật hành sâu về hạnh nhẫn nhục như thế nào?
- Các chúng sanh ác khẩu, mắng nhiếc chưởi rủa và dùng dao gậy, ngói đá hại thân ta, lúc ấy ta chẳng nên giận hờn, chẳng nên hối hận. Ta phải tự điều phục tâm mình như thế này: Các chúng sanh ấy vì ngu si chẳng biết nên sanh khởi ra nghiệp ngu si, nếu đối với họ mà ta giận hờn lại thì ta nào có khác chi họ, làm sao nhập đạo cho được, lòng ta phải giữ như mặt đất, bình đẳng hứng chịu các thứ tốt xấu, sạch nhơ.
Quá khứ xa xưa có người ngoại đạo tên là Nhẫn lực thọ pháp tu như vầy: Với các chúng sanh tôi chẳng sanh lòng hờn giận.
Bấy giờ có ma tên Ác ý nghĩ rằng nay ta sẽ đến chỗ tiên nhơn đó phá hoại pháp nhẫn nhục để khiến cho y sanh lòng sân hận mà hư tâm nhẫn nhục ấy đi. Ma liền sai ngàn người giỏi mắng chửi nhất, đến vây quanh tiên nhơn ấy buông lời ác chửi mắng, lúc tiên nhơn ấy đi cũng mắng, lúc vào trong xóm khất thực cũng mắng, lúc đang ăn cũng mắng, ăn xong cũng mắng, đứng dậy cũng mắng, ra khỏi xóm cũng mắng, về đến chỗ cư ngụ cũng mắng, lúc ngồi, lúc nằm, lúc đi kinh hành cũng mắng, cho đến cả thở ra, thở vào cũng mắng, luôn luôn theo mắng chửi như thế không ngừng nghỉ.
Ngàn người do ác ma sai khiến ấy mắng chưởi tiên nhơn suốt tám vạn bốn ngàn năm (84.000) như vậy, còn riêng ma Ác ý thì mỗi khi tiên nhơn đi vào trong thôn xóm, nó lấy phẩn, tiểu cùng các thứ dơ bẩn khác đổ lên đầu, lên y, lên bát, lên thân của tiên nhơn.
Dầu bị mắng chưởi, nhục nhã đến 84.000 năm như vậy mà tiên nhơn Nhẫn lực chẳng hề sanh lòng hờn giận, hay khởi tâm muốn bỏ hạnh tu, chẳng hỏi tôi có lỗi gì và cũng chẳng để mắt nhìn ngó kẻ ác.
Sau 84.000 năm vây quanh mắng chửi như thế, ngàn người giỏi mắng chửi ấy biết chẳng thể nào phá hoại được tiên nhơn, nên sanh ra lòng tin thanh tịnh, họ đối trước tiên nhơn sám hối xin trừ tội và phát nguyện rằng:
- Ngài tu tập như vậy cầu được pháp gì, chúng tôi cũng nguyện được như pháp ấy.
Rồi họ cung kính cúng dường, tôn trọng, khen tặng tiên nhơn. Dầu được như vậy nhưng Nhẫn lực tiên nhơn cũng chẳng vì đó mà sanh lòng tham ái.
Này Đại Mục Kiền Liên, tiên nhơn Nhẫn lực thuở xưa chính là thân ta. Thuở ấy ta tu pháp nhẫn nhục suốt 84.000 năm như vậy mà lòng ta vẫn chẳng đổi khác (Đại Bảo Tích kinh – Đại bi phẩm).
- (Sau 84.000 năm như vậy thì ngài thành tựu được nhẫn nhục Ba la mật (1) – Tức là vào được ngôi vị đệ tam Phát quang địa trong hàng Thập địa Bồ tát).
Ghi chú:
(1) Nhẫn nhục Ba la mật. Có 3 loại:
- Phục nhẫn: Đây là đức nhẫn của các bậc bồ tát trong các giai vị: Thập trụ, thập hạnh, thập hồi hướng.
- Tín nhẫn: Đây là đức nhẫn của các bậc bồ tát từ sơ địa đến Tam địa. Thuận nhẫn: Đức nhẫn này của các bậc bồ tát từ Tứ địa đến lục địa. Vô sanh nhẫn: Đức nhẫn này của các bậc bồ tát từ Thất địa đến Cửu địa.
- Tịch diệt nhẫn: Đức nhẫn này chỉ riêng cho các giai vị Bồ tát từ Thập địa tới bậc Diệu giác (Phật) mà thôi.
Trở lại việc của cố Hòa thượng bị nhiều thị phi và khẩu thiệt trong những giai đoạn (đầu) sau cùng của đời ngài thì hầu hết đều do nơi các sự ganh tị, ghét thương, tranh giành uy tín, ảnh hưởng v.v.. từ các đệ từ mà gây ra cả, làm cho tổn thương đến ngài cũng không phải ít, nhưng ngài vẫn kham nhẫn và vượt qua được hết bởi vì ngài là một bậc chân thật tu hành, thấu rõ được hết các lẽ nhơn quả xưa nay qua lời Phật dạy vì thế nên tâm ngài lúc nào cũng an nhiên như ngọn núi cao luôn đứng vững vàng giữa các cơn phong ba, bão tố. Vả lại trong bộ luận “Bảo Vương Tam muội” cũng có dạy rằng:
… Ở đời đừng cầu không khó khăn, vì nếu không bị khó khăn thì kiêu sa nổi dậy
… Sự nghiệp đừng mong không bị chông gai vì không bị chông gai thì chí nguyện chẳng kiên cường
... Oan ức không cần bày tỏ, biện bạch, vì bày tỏ, biện bạch thì hèn nhát mà trả thù thì oán đối kéo dài...
Bởi thế, Đức Như lai thiết lập chánh pháp, lấy bệnh khổ làm thuốc hay, lấy hoạn nạn làm thành công, lấy gai gốc làm giải thoát, lấy ma quân làm bạn đạo, lấy khó khăn làm sự tác thành, lấy bạn tệ bạc làm người giúp đỡ, lấy kẻ chống nghịch làm người giao du, lấy sự thi ân như đôi dép bỏ, lấy xả lợi làm vinh hoa, lấy oan ức làm đà tiến thủ. Thế nên ở trong chướng ngại mà vượt qua tất cả.
Đức Thê tôn được giác ngộ chính trong các sự chướng ngại. Từ nơi Ương quật Ma la (tướng cướp Vô não) hành hung. Đề Bà Đạt Đa khuấy phá mà ngài đều giáo hóa cho thành đạo tất cả. Như vậy thì đó không phải là sự tác nghịch mà chính là sự tác thành, không phải là sự quấy phá mà chính là sự giúp đỡ cho ta vậy.
Ngày nay những người học đạo vì không chịu dấn mình vào các sự trở ngại nên khi bị trở ngại đưa đến thì không thể nào đối phó được. Chánh pháp chí thượng vì vậy mà mất cả, thật là đáng tiếc, đáng buồn biết bao!
Nhờ biết được như vậy và cũng nhờ đến lời Phật dạy khi xưa (trong giấc mộng) là:
Liên Hương thơm sực nức,
Còn chút nghiệp phải mang
nên ngài cũng biết rằng đây là chút ít dư nghiệp của mình còn sót lại (trong tiền kiếp) vì thế mà hơn bao giờ hết tâm ngài vẫn cảm thấy tự tại, an vui, mặc cho tình đời đổi thay dâu bể.
Ngài có một bài thơ tỏ ý mình như sau:
Bao nhiêu tuổi, biết bấy nhiêu nơi,
Dở dở, hay hay ở với đời.
Nỡ giận hờn chi cho mệt dạ,
Tránh tranh đua miệng đỡ hao hơi.
Thế nhân suy tính ngàn muôn lối,
Nhưng tính sao hơn được với Trời.
Chán biết nhân tình là tệ bạc,
Cũng trò, cũng chuyện cũng cười chơi!
Vô Nhất
Thích Thiền Tâm
Qua bài thơ này ta thấy mến thương và kính phục ngài rất nhiều. Nguyện cầu cho các bậc hiền tăng khác trong thời buổi mạt đạo này lúc nào cũng giữ được tâm mình an nhiên như cố hòa thượng vậy.
Tuy thế nhưng cũng có đôi lúc nào đó ngài nghĩ lại mà cảm thấy buồn cho phần số của mình, gây tạo chi cho nhiều túc nghiệp tiền khiên, nên hiện tại phải bị lãnh chịu không biết bao nhiêu là phong ba vùi dập gần suốt khoảng đời qua mà chợt thất chạnh lòng, qua ý thơ sau:
Sóng nghiệp xa đưa đến Đại Ninh,
Thị phi, thương ghét biết bao tình.
Lắm khi nhục nhã, lòng câm nín,
U uất khổ sầu cũng lặng thinh.
Thất nhỏ đêm ngày chuyên lễ niệm,
Sớm mõ, chiều chuông tiếng kệ kinh.
Nguyền mong Tam thánh trời Tây đến,
Đài kim rực chiếu ánh quang minh.
Và qua ý của đoạn thơ sau:
Ẩn tu nghĩ lại quảng đời nay,
Bao lớp gian truân nổi đọa đày.
Ẩn nhẫn trả xong tròn nghiệp trước,
Dấu hồng chuyện cũ tuyết mờ bay.
Vô Nhất
(Ẩn tu ngẫu vịnh)
Trong thời gian bế quan nhập thất lần sau cùng này tại Phương Liên tịnh xứ, mặc dù ròng rặc chuyên tu, nhưng với bi tâm độ sanh và nghĩ thương đến cho các hàng hậu tấn về sau trên đường tu học khó khăn trong thời buổi nhiễu nhương này, nên ngài cũng vẫn cố gắng dành dụm thời giờ rỗi rảnh để phiên dịch và soạn thuật thêm ít nhiều kinh sách lưu hậu.
Trong 24 năm sau chót của đời ngài (từ 1968-1992) tại đạo tràng Đại Ninh, Hương Quang tịnh thất, Hương Nghiêm tịnh viện và Phương Liên tịnh xứ ngài đã hoàn thành xong được việc phiên dịch và trước tác các bộ kinh sách sau đây:
Các quyển:
a. PHẬT ĐẢNH TÔN THẮNG ĐÀ RA NI KINH.
Đây là một quyển kinh dạy về Mật chú, một pháp môn mà ngài hoằng hóa song hành cùng với môn TịnhĐộ, dành cho các hành nhơn có căn Mật Tông tu học.
Quyển sách này đã được ban hoằng pháp của chùa Pháp Hoa tại Tucson Arizona tái bản và ấn tống trước sau ba lần trên 6.000 quyển cả thảy (và thêm một lần in tại Việt Nam vào năm 1993 do thân phụ cùng quyến thuộc của Bảo Đăng phát tâm ấn tống 2.000 quyển nữa) – cộng thêm vào trong quyển kinh có các phần chú thích và soạn pháp nghi tu (cho thần chú này) do cháu ruột của ngài Đại đức bổn sư, Thích Hải Quang phụ lục).
b. ĐẠI NHỰT KINH (giải thích) gồm 3 quyển Hạ-Trung-Thượng dài trên 700 trang. (Bộ kinh này đến nay vẫn chưa hội đủ được cơ duyên để ấn tống và lưu hành).Đây là hai quyển kinh dạy về Mật Tông (Để phối hợp với phương cách tu Mật Tịnh của ngài – sẽ nói ở phần kế tiếp) trong thời gian này.
c. MẤY DIỆU SEN THANH (Tức Tịnh độ thánh hiền lục) gồm có 07 tập, dài gần 1.000 trang. Đây là một quyển sách hiển rõ về hiện chứng (lượng) vãng sanh của pháp môn Tịnh Độ. Bằng vào một lối hành văn nhẹ nhàng, cực kỳ rõ ràng và trong sáng, ngài đã làm cho các hành nhơn tu theo Tịnh tông thảy đều đọc hiểu, thấu suốt được tôn chỉ của pháp môn và phát tâm niệm Phật bất thối chuyển.
d. Chú giải 108 bài NIỆM PHẬT KỆ của Triệt Ngộ Đại sư (Liên Tông thập nhị tổ) với các phần chứng minh về sự, ly viên dung đến một mức tuyệt diệu mà chỉ có được ở nơi cố Hòa Thượng (mới diễn đạt nổi như thế mà thôi).
e. LIÊN TÔNG THẬP TAM TỔ (13 vị tổ sư của Tịnh Tông). Đây là một quyển sách (ngoài) phần lược lại tiểu sử của chư tổ ra còn được phụ lục thêm vào một ít phần di pháp của ngài đã tuyên dạy, dài trên 300 trang, qua quyển sách này cố Hòa Thượng đã hiển rõ ra các yếu điểm quan trọng về Thánh ngôn lượng, lý trí lượng và hiện chứng lượng của pháp môn Tịnh độ, khiến cho các Phật tử tu học theo đây càng được tăng thêm niềm tin sâu chắc vào pháp môn trì niệm của mình.
Từ trước đến nay, qua các bộ kinh sách dạy về Tịnh Độ đã được ngài phiên dịch, trước tác, giảng giải và hoằng dương, pháp môn Tịnh Độ của Phật giáo Việt Nam đã được trùng hưng và phát triển đến mức cực điểm. Số lượng người quy hướng theo Tịnh tông đông không kể xiết. Các bậc tôn đức tăng già Việt Nam và chư Phật tử thảy đều tán thán công lao ấy và tôn ngài lên ngôi vị:
VIỆT NAM PHẬT GIÁO, TỊNH ĐỘ TÔN SƯ.
LIÊN DU – VÔ NHẤT ĐẠI SƯ
THÍCH THIỀN TÂM HÒA THƯỢNG
Và xem ngài như là một đại sư có công hoằng dương Tịnh Độ lừng lẫy vào bậc nhất của Phật giáo Việt Nam đương kim vậy.
Ngoài ra, ngài còn phiên dịch và soạn thuật thêm một số kinh sách khác nữa như sau:
- TAM BẢO CẢM ỨNG YẾU LƯỢC LỤC
- NHƠN QUẢ LUÂN HỒI TẠP LỤC KÝ
- TÂY PHƯƠNG NHỰT KHÓA (soạn thuật)
và còn nhiều nữa mà Bảo Đăng tôi không biết hết được.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét