Thứ Ba, 22 tháng 11, 2011

VÔ NHẤT ĐẠI SƯ - THÍCH THIỀN TÂM - MỘT CAO TĂNG CẬN ĐẠI- PHẦN III: GIAI ĐOẠN XUẤT DƯƠNG HỌC ĐẠO

PHẦN III: GIAI ĐOẠN XUẤT DƯƠNG HỌC ĐẠO

(Nhắc lại… Trong cuộc đời của cố Hòa thượng có hai lần xuất dương quan trọng:
- Một lần rời quê lên Mỹ Tho học thuốc để trị bệnh cho mẹ khi còn là cư sĩ.
- Và lần này trong tư cách của một học tăng xuất dương (khỏi chùa) đi xa học đạo.)
Trong hết thảy chúng ở chùa thì ngài là một người nhỏ tuổi và mới tu nhất, nhưng ai nấy cũng đều nhìn nhận rằng người tân sa di mới xuất gia đây quả nhiên có một khả năng về đạo học rất uyên thâm và một rí thông minh tuyệt vời, mà từ trước đến nay ít thấy có ai được như vậy cả.
Chẳng những như thế không mà thôi, lại còn đứng thêm về mặt tánh hạnh và sự chuyên cần tu học cũng chẳng thấy có ai hơn được. Do đó cho nên trong chùa mọi người ai cũng đều mến thương và quý trọng ngài hết. Nhất là đại lão Hòa thượng thế độ, kiêm y chỉ sư, Thích Thành Đạo đặc biệt chú ý và có tâm muốn nâng đỡ ngài. Năm nay Hòa thượng cũng đã cao tuổi lắm rồi, ngày về với Phật e chẳng còn lâu, nên Hòa thượng muốn cho ngài có được một cơ hội khác, thuận tiện hơn nữa để phát triển thêm sở học, hầu sau này có thể làm rỡ mặt cho sư môn và mang lại ích lợi nhiều hơn cho Phật giáo. (Vào thời gian này Phật giáo trong miền Nam bị phân tán, chia chẻ ra nhiều chi phái khác nhau nên không được mấy gì khởi sắc cho lắm so với Phật giáo ở ngoài Trung và ngoài Bắc).
Hòa thượng nghĩ rằng:
- Như con chim đại bàng thì phải bay lên khỏi chín từng mây, chớp cánh một cái là vượt xa hàng trăm muôn dặm, con cá kình (ngư) thì phải vẫy vùng nơi chốn bể sâu, con rồng thiêng ắt phải về nơi đại hải hay bay bỗng giữa lừng trời, chớ không thể nào để cho chim đại bàng mà phải bị giam mình ở trong bờ lau, đám sậy, con cá kình phải bị trầm mình nơi chốn suối ao, và con rồng thiêng phải bị vùi thân trong đáy vực được.
Sa di Thiền Tâm đây qua con mắt của ta, quả thật nó có một cái “chân tài, thực học” và một trí huệ phi thường còn đang tiềm ẩn, tựa như viên ngọc quý mà vẫn còn bị nằm trong khối đá vậy. Ta là thầy, thì bổn phận của ta là phải làm sao cho đệ tử càng ngày càng thêm tăng tiến, giỏi dắn hơn lên, phải đập bể đá kia mà đem viên ngọc quý ấy ra ngoài rồi giũa mài cho nó thành một món bảo vật tuyệt vời mới được.
Cho nên ta không thể nào để cho THIỀN TÂM nó phải (bị) lâm vào cái cảnh vùi thân tại ngôi chùa cổ nằm nơi quận nhỏ này mà uổng phí đi cho một đấng “tăng tài” trong Phật pháp được cả.
Ta phải đưa nó lên Sài Gòn và gởi vào trong Phật học viện để cho khả năng của nó được đào luyện phát triển đúng mức hầu sau này nó sẽ trở thành một vị tăng tài cho Phật giáo trước khi ta nhắm mắt lìa trần.
Vì nghĩ như vậy nên Hòa thượng mới gọi ngài vào trong tư thất, bày tỏ ý kiến của mình cho ngài rõ và quyết định đưa ngài xuất dương đi học đạo tại Sài Gòn.
Ban đầu ngài từ chối và thưa rằng mình vốn không có một ý định gì ở nơi danh vọng, tiếng tăm hết mà chỉ muốn an thân nơi chốn chùa nghèo, quận nhỏ, một tâm, một dạ chuyên nhất tu hành cho đến ngày giải thoát mà thôi. Nhưng sau khi nghe Hoà thượng thế độ sư giải bày cặn kẽ mọi lẽ thiệt hơn, nên ngài dập đầu tạ ơn mà bái lãnh.
Mọi thủ tục đã xong, sa di THÍCH THIỀN TÂM bái biệt sư phụ cùng các bạn đồng tu và ngôi Sắc Tứ Linh Thứu tự, đến Mỹ Tho vào Vĩnh Tràng tự đảnh lễ Hòa thượng bổn sư THÍCH PHẬT ẤN thưa rõ lý do và được Hòa thượng hoan hỷ tán đồng rồi, thì ngài khăn gói lên Sài Gòn vào trình diện viện Hóa Đạo Ấn Quang, nơi đây ngài được Hòa thượng Viện chủ THÍCH THIỆN HÒA hoàn tất cho các thủ tục cần thiết sau chót, để ngài đến Phật học đường LIÊN HẢI (Chùa Sùng Đức) trình diện và theo học chúng nơi đây, thụ học chương trình Trung Đẳng Phật pháp.
(Thời gian này là vào đầu năm 1948 – ba năm sau ngày xuất gia).
Đến đây, ngài lại bắt đầu bước thêm vào một đại lộ khác nữa, to lớn và rộng rãi hơn trên con đường tiến tu đạo nghiệp của mình.
Và nơi đây, tại viện Trung Đẳng Phật học Liên Hải, tăng sinh THÍCH THIỀN TÂM lại bắt đầu dùi mài, kinh sử bút nghiêng cùng với chư học chúng từ các nơi khác của hai miền Trung, Nam quy tụ về cùng nhau tu học … (Đến đây Bảo Đăng tôi chỉ xin lược sơ qua chớ không đi sâu vào chi tiết vì các lý do sau:
- Các tài liệu về việc tu học của ngài trongthời gian này hầu hết đều bị thất lạc, nên việc thu thập của Bảo Đăng không được hoàn hảo.
- Để tỉnh giảm bút lực cho các phần khác sau này).
Chương trình Trung đẳng Phật pháp cho một vị tăng (nồng cốt của giáo hội) kéo dài trong ba năm liên tiếp, vì vậy cho nên thời gian ngài theo học tại nơi đây bắt đầu từ năm 1948 cho đến cuối năm 1950 mới hoàn tất và tốt nghiệp xong trình độ Trung đẳng Phật học. Trong giai đoạn này (từ 1948-1950), tình trạng Phật giáo miền Nam (như đã có lược sơ qua ở phần trước) vẫn còn bị phân tán và thiếu tổ chức cho nên mặc dù Phật tử tuy là đông nhiều, nhưng đại đa số đều không thông hiểu Phật pháp, còn về phía chư tăng ni đa phần cũng không được đào tạo Phật pháp đúng mức trong chức vụ đảm nhiệm, cho nên các Hòa thượng lớn đều có vẻ lo âu và cùng nhau bàn tính suy tìm một phương cách mới để chấn hưng giáo hội, bằng cách đào tạo thêm tăng tài và phổ biến giáo lý một cách rộng rãi hơn nữa từ thành thị đến thôn quê, hầu cho các tầng lớp dân chúng và Phật tử được ít nhiều hiểu biết thêm về quốc giáo của mình.
Và như vậy cho đến mùa Xuân năm 1950 (Canh Dần)  (Lúc đó cố Hòa thượng còn đang theo học những chương trình chót của lớp Trung Đẳng Phật pháp nơi Phật học viện Liên Hải) – thì các Hòa thượng lớn (bậc thầy) mới bắt đầu thực hiện được phần đầu của kế hoạch.
Rồi kế tiếp sau đó, hai Phật học đường có tiếng tăm của Miền nam lúc bấy giờ là: Phật học đường Liên Hải và Phật học đường Mai Sơn được kết hợp và nhập chung lại thành ra một Phật học viện lớn hơn và duy nhất đó là:
“PHẬT HỌC ĐƯỜNG NAM VIỆT”
(cũng vẫn còn) đặt trụ sở tại chùa SÙNG ĐỨC (Chợ Lớn) Chư tăng sinh của cả hai Phật học đường đều được sáp nhập lại vào trong Phật học đường Nam Việt dưới sự Đốc giáo (Hiệu trưởng kiêm Giáo sư trưởng) của Hòa Thượng Viện chủ kiêm Trụ trì Viện hóa Đạo Ấn Quang THÍCH THIỆN HÒA. Và đương nhiên là Cố Hòa thượng Thích Thiền Tâm của chúng ta cũng theo về nơi Phật học đường Nam Việt mới(cùng một trụ sở là Chùa Sùng Đức) và tại nơi đây ngài đã hoàn tất xong chương trình Trung Đẳng Phật Pháp vào cuối năm 1950.
Thời gian từ khi ngài rời khỏi bổn tự Sắc Tứ Linh Thứu, bổn sư THÍCH PHẬT ẤN cùng với thầy thế độ kiêm y chỉ sư THÍCH THÀNH ĐẠO để lên Sài Gòn tu học và tốt nghiệp xong lớp Trung Đẳng này trước sau là 3 năm cả thảy (1948-1950).Cũng trong thời gian này (vào khoảng đầu năm 1950 cố Hòa Thượng thọ cụ túc đại giới (tỳ kheo giới) tại đại giới đàn Ấn Quang, bái Hòa Thượng hội chủ, kiêm viện trưởng viện Hóa Đạo Ấn Quang THÍCH THIỆN HÒA làm y chỉ sư và cầu pháp sư, để nương theo tu học trên con đường đạo nghiệp. (Như vậy thì trước sau cố Hòa thượng có tất cả là 3 thầy dẫn dắt trong đường đạo).
1. Mỹ Tho, Vĩnh tràng tự, Hòa thượng THÍCH PHẤT ẤN: bổn sư.
2. Xoài Hột, Sắc Tứ Linh Thứu Tự, Đại lão Hòa thượng THÍCH THÀNH ĐẠO: Y chỉ sư và thế độ sư (Thầy xuống tóc cho mình thì gọi là thế độ sư).
3. Sài gòn, Ấn Quang Tự, Hòa thượng THÍCH THIỆN HÒA: Y chỉ sư và cầu pháp sư.
Sau khi mãn khóa học này, các học chúng có người thì trở về chùa xưa tiếp tục lo phần hóa đạo, có người thì vẫn ở lại Sài gòn để tiếp tục học thêm.
Chư Hòa Thượng trong ban Giáo thọ của Phật học đường Nam Việt nương trong thế thuận lợi này mở tiếp lớp: “CAO ĐẲNG PHẬT HỌC I” để đào tạo thêm các tăng tài cho giáo hội với trình độ cao cấp, khả dĩ có đầy đủ khả năng làm hưng thịnh cho Phật giáo trong thế hệ kế tiếp (quý thầy lớn hiện tại) sau này. Khóa I Cao đẳng Phật pháp này được thành hình vào cuối năm 1950, và bắt đầu khai giảng lớp học đầu tiên vào tháng Giêng năm 1951 (Thời gian này Phật học đường Nam Việt được dời trụ sở từ chùa Sùng Đức về chùa Ấn Quang).
Cố Hòa thượng THÍCH THIỀN TÂM của chúng ta được tuyển chọn để tham dự vào lớp học mới này. Lúc đó do vì danh tiếng của Phật học đường Nam Việt được phổ cập khắp cả miền Nam, nên chư tăng từ khắp các nơi vân tập về xin ghi danh nhập học rất nhiều (trên 100 vị học tăng).
Cũng trong giai đoạn này vì là một Phật học viện lớn, chư học tăng lại đông, ban giáo thọ hiện tại không thể nào lo cho xuể được (thiếu nhân lực) nên phải tuyển chọn một số các thầy xuất sắc, có đầy đủ khả năng, trình độ của lớp Cao đẳng … ra phụ giúp, và cố Hòa thượng được tuyển chọn vào trong ban giám học với chức vụ “TRI CHÚNG” (tức là làm trưởng tràng, trực tiếp trông coi, nhắc nhở và điều khiển sinh hoạt cho các học chúng).
Năm đó cố Hòa thượng vừa được 24 tuổi.
Và mặc dầu rằng còn trẻ nhưng vị Tri chúng này đều được tất cả mọi người mến thượng, quý trọng (mà mãi cho đến về sau này, những thầy học cùng khóa với ngài lúc bấy giờ, mỗi khi nhắc đến thầy Thiền Tâm ai nấy cũng đều kính nể cả).
Trong số các học tăng của lớp Cao Đẳng Phật pháp đầu tiên này (Sau đó còn có lớp thứ hai và thứ ba nữa) thì thầy Thiền Tâm lúc nào cũng vẫn luôn luôn là một tăng sinh đứng đầu trong lớp về các phương diện:
+ Tài đức.
+ Khả năng và thiện chí.
- Trên bình diện học vấn, ngài rất mực thông minh, học đâu hiểu đó và thông suốt cặn kẻ mọi đề tài, cho nên các giáo thọ sư đều rất mến thương, nâng đỡ.
- Về đức hạnh thì cố Hòa thượng là một người nghiêm trang, ít nói. Hoặc như khi có việc gì cần phải nói năng, khuyên nhắc thì ngài rất từ tốn, dịu dàng không làm cho một ai bị tổn thương hay xúc não cả.
- Về khả năng và thiện chí thì ngài luôn luôn thích ứng và chu toàn bất cứ một trách nhiệm nào đã được các thầy lớn giao phó một cách hoàn hảo chớ không tắc trách hay bỏ dỡ nửa chừng.
Hòa thượng Viện chủ kiêm đốc giáo THÍCH THIỆN HÒA luôn luôn hài lòng với ngài và thường nói với chư giáo thọ sư khác rằng:
- Thiền Tâm là một con người đặc biệt, sau này nó sẽ làm lợi ích cho Phật Giáo rất nhiều. Tôi mong mỏi sao cho có được nhiều người như nó vậy thì trong tuổi già tôi mới có thể an tâm tịnh dưỡng.
Khoảng đầu năm 1952, Hòa thượng Hội chủ THIỆN HÒA, cùng với một số quý thầy khác trong Hội Phật Học Nam Việt như Thầy Nhựt Liên  Thầy Quảng Minh, v.v… đến Trà Ôn (Vĩnh Bình) cung thỉnh Hòa thượng THÍCH THIỆN HOA (trụ trì chùa Phật Quang, làng Bang Chang, Quận Trà Ôn) về Sài Gòn để cùng chung lo Phật sự, tiếp độ học chúng, đào tạo tăng tài. Và sau đó, vào đầu năm 1953, Hòa thượng THIỆN HOA (cùng với ban giám học của ngài thêm 7 vị nữa) lên đến Sài Gòn, thay thế Hòa Thượng THIỆN HÒA giữ chức Đốc giáo Phật Học Đường Nam Việt. Thời gian này cố Hòa thượng Thiền Tâm đang theo học các chứng chỉ chót của lớp Cao đẳng và ngài cũng đã tiếp tay với Hòa Thượng THIỆN HOA rất nhiều trong chức vụ Tri chúng và ban giám học, nhờ vậy mà sanh hoạt của chư học tăng được rất nhiều thuận duyên tốt đẹp để an tâm tu học.
Cuối năm 1954, lớp I Cao đẳng Phật Pháp hoàn tất, trong số hơn 100 học tăng chỉ có 13 vị được tốt nghiệp, (tất cả học chúng còn lại chỉ đủ sức để được cấp chứng chỉ mà thôi), trong số 13 vị tốt nghiệp ấy thì cố Hòa thượng được xếp đứng đầu với điểm hạng “Tối Ưu” qua bài văn “KHUYẾN TU” BẤT HỦ (mãi cho đến bây giờ, đã hơn 40 năm qua rồi mà bài văn này vẫn luôn luôn là một bài văn có giá trị siêu tuyệt).
Đến đây, Bảo Đăng tôi thấy việc rất cần thiết là phải nên ghi lại bài văn Khuyến Tu ấy vào nơi quyển sách này hầu cho chư đọc giả có duyên xem đến, nhơn đó mà được thêm ít nhiều thức tỉnh, lập tâm nơi bước đường tu, nhất là về pháp môn Tịnh Độ:
KHUYẾN TU
(TRÍ HIỀN, THÍCH THIỀN TÂM)
Soạn dịch:
Dẫn nhập:
Xưa Nhan Bính. Như Như cư sĩ.
Dẫn luận kinh, ý ý khuyên cầu.
Bút nhàn khuyên giữa canh thâu,
Tỉnh ai trần lụy, đổi sầu làm tươi.

Thân bào ảnh lắm người yêu quý, (1)
Yêu quý than cho lụy vì than,
Cuộc vui những ước vô ngần,
Nào hay vui vẫn là nhân chác sầu!
Kiếp phù thế bóng câu cửa sổ,
Vóc huyễn hư giọt lộ long hoa,(2)
Đôi mươi trẻ, tám mươi già,
Số người yểu thọ, khó qua vô thường.
Dép dưới giường, trên giường bỗng biệt,
Sống ngày nay dễ biết ngày mai,
Mạng người hô hấp cho hay,
Nghĩ cơn vĩnh biệt, tuyền đài mà đau!
Xót duyên kiếp vì sao ngắn ngủi,
Chấp than chi để tủi cho thân,
Da bao những thịt, xương, gân,
Xác người như thể đóng phân sạch gì.
Tóc, răng, móng khác chi đất bợn,
Mũi, dãi, đờm ghê tởm xiết bao,
Bên ngoài rệp đút, muỗi đeo.
Bên trong sán, lãi lẫn vào nhớp chưa?
Nỗi nóng bức, ngày trưa tiết hạ,
Cơn lạnh lung đêm giá trời đông,
Xét thân nhơ khổ vô cùng,
Xả lòng tham luyến, khởi long thoát ly.

Trách người thế mê chi lắm nhẻ,
Sánh phong lưu phô vẻ y quan, (3)
Kẻ khờ cũng học đài trang (4)
Để lòng điên đảo, theo đàng sắc thanh.
Đầu xương sọ cài trâm thắt lụa,
Đảy da hôi ướp xạ, xông hương,
Khéo đòi nhung gấm phô trương
Chỉ tuồng che lớp vô thường hôi tanh.
Những mãn tưởng ngày xanh muôn tuổi,
Lắm cơ mưu theo đuổi yên hoa.
Ngờ đâu tay điếc, mắt lòa,
Diêm vương sắp rước đến tòa U Minh.
Làn tóc bạc đưa tin quỷ sứ,
Góc răng long nhắn ý quy âm,
Càng tài, càng sắc, càng dâm,
Càng cho đọa lạc, càng lầm mà thôi
Cuộc hành lạc một thời tham tiếc,
Nẻo luân hồi muôn kiếp đắng cay,
Đến khi sắp xuống Diêm đài,
Thịt xương đau nhức, chân tay rụng rời,
Vợ lưu luyến, đầy vơi giọt lệ,
Con tiếc thương, kể lễ khóc than.
Dầu cho quyến thuộc muôn ngàn,
Có ai thay thế cho chàng được đâu!

Kẻ sống nặng hoằng gánh tủi,
Người chết đi dong ruỗi phách hồn,
Đường âm mờ tựa đêm hôm,
Trông ra quạnh quẻ bồn chồn chỉnh ghê.
Nại hà đến lạnh tê gió lốc, (5)
Quỷ môn quan ghê gốc tiếng thương,
Bảy ngày lìa quá cõi dương,
Âm ty đã trải trăm đường khảo tra.
Tào quan xử thét la chẳng vị, (6)
Ngục tốt hờn, xoa, chủy đâu tha. (7)
Đài gương nghiệp cảnh chói lòa, (8)
Soi tường thiện, ác chối qua được nào.
Người nhân đức đưa vào cõi phước,
Kẻ hung hoang giải trước hình ty,
Đọa đày thảm khổ xiết chi,
Mới hay nhân quả mấy khi sai lầm.
Rừng đao kiếm bao năm hết tối, (9)
Kiếp lông, sừng nhiều nỗi đa mang, (10)
Trả đền cho dứt nghiệp oan,
Mới mong thoát khỏi con đàng long đong.
Dù ai có to lòng, lớn mật,
Mặc chàng hay báng Phật, khinh Tăng, (11)
Chẳng qua đối trước Diêm quân,
Cúi đầu, co gối chịu phần khảo tra.

Hồn phách đã xa chơi âm giới,
Thi hài còn nơi cõi dương gian,
Có tiền mua lớp áo quan,
Không tiền vùi chốn núi hoang lạnh lùng.
Chất da thịt sẽ cùng tan rã,
Tấm hình hài lần hóa tanh hôi,
Chỉ trong hôm sớm mà thôi,
Chầy năm bảy bửa, sớm thời ít hôm.
Nét kiều diễm chập chờn xuân mộng,
Kiếp tài hoa hình bóng bạch vân,
Khi xưa tài sắc mười phân,
Mà nay một nấm cô phần lạnh tanh. (12)
Thời oanh liệt, anh hùng đâu tá,
Nỗi ái ân hư, giả còn chi,
Phất phơ cành liễu xanh rì,
Giấy tiền treo đó, đường ghi mối sầu.
Bóng chiều rủ xuống mầu cỏ biếc,
Bia mồ trơ một chiếc vắng không,
Nghĩ thôi rơi lệ chạnh lòng,
Đời người đến thế là xong cuộc đời.

Ví chăng biết tìm nơi giải thoát,
Nương về ngôi chánh giác quy y,
Luân hồi dứt hằn có khi,
Bên trời bát nhã còn chi lo phiền.
Lối ma quỷ đừng riêng sinh sống,
Đất từ bi có giống Hoa Đàm, (13)
Giữ long thiến, dứt long tham,
Gái, trai, Tăng, tục đều ham tu hành.
Rõ cảnh mộng chớ quanh đường mộng, (14)
Biết miền chơn hãy chóng tu chơn, (15)
Dần dà tính thiệt so hơn,
Tuổi xuân qua mất để hờn về sau.
Sáu chữ Phật cùng nhau gắng niệm, (16)
Chín phẩm đài sen, chiếm ngôi vinh,
Chớ nên mình phụ lấy mình,
Trách sao Diêm Lão vô tình chẳng dung. (17)
Bỏ điều ác xin cùng tu thiện,
Chừa lỗi xưa, cải tiến đường sau,
Lại vì quyến thuộc bảo nhau,
Cùng khuyên già trẻ sớm mau tu trì.
Khiến mỗi kẻ đồng quy bến giác,
Cho mọi người đều thoát song mê,
Dù cho lao khổ dám nề,
Đài sen đốt mảnh hương thề nguyền xin….
Xin dốc tưởng tin theo lời Thánh, (18)
Đừng để cho rỗi rãnh, ưu du, (19)
Kiếp này nếu chẳng chuyên tu,
Chỉnh e kiếp khác công phu lỡ làng.
TRÍ HIỀN
(THÍCH THIỀN TÂM)
(1) Câu này ý nói: Thân tứ đại của ta không bền, nó mong manh như bóng, như bọt, không thường còn, sống chết không biết lúc nào, vậy mà người đời lầm tưởng là nó trường tồn nêng nâng niu yêu quý nó(rốt cuộc bị đoạ vì nó).
(2) Thân vóc này nó mau già, bệnh, chết, cũng giống như giọt sương (giọt lộ) đọng ở giữa bông hoa vậy, lúc sáng sớm còn thấy có nó, đến khi mặt trời lên một chút sau thì tan mất (bốc hơi) – Đây cũng ý nói là không bền.
(3) Vậy mà còn làm ra vẽ giàu sang, phô trương áo quần nhung lụa (bọc bên ngoài cái thân hôi thúi)
(4) Cho đến đứa ngu khờ (đây là dụ cho tất cả chúng sanh) cũng muốn làm sang đẹp – Đây là cái bịnh yêu, ái, chấp thủ (tập khí) của tất cả chúng sanh từ vô thỉ kiếp đến giờ.
(5) Nại Hà: là tên của một con sông ở dưới âm phủ nằm phân chia ranh giới của cõi dương (sống) và cõi âm (chết). Bắc ngang qua sông là một cái cầu vồng nhỏ bề ngang chừng bằng bắp tay tên là Nại Hà kiều. Hồn người chết phải đi ngang qua cầu ấy. Trên cầu có gió lạnh thổi lên, nếu hồn là người hung ác, tội nặng… thì bị lạnh cóng, tê hết tay chơn, té xuống sông, bị rồng rắn ở dưới ăn thịt (và bị đọa vào địa ngục)
(6) Tào quan: Tào là âm tào (âm phủ) - Mấy vị quan lại dưới âm phủ như phán quan chẳng hạn. Đối với người có tội thì họ la hét, xử phạt thẳng tay không có vị tình dù kẻ đó là Trời, rồng, vua chúa đi nữa(pháp bất vị thân)
(7) Xoa, Chủy: Tên của một thứ vũ khí thời xưa – Xoa: giống như một cái lò xoa (ruột gà) nhọn và bén, đâm vào bụng rồi rút ra thì ruột, gan, tim phổi theo nó mà đổ đống ra ngoài – Chủy: tựa như quả tạ, đập xuống một cái là dẹp lép như tờ giấy.
(8) Đài gương nghiệp cảnh: ở âm phủ có lập một cái đài cao, trên đó có bài trí một tấm kiếng (gương)rất lớn. Nếu vong hồn nào chối nói là không có gây tội vv…thì phán quan đem ra trước kiếng này, bao nhiêu tội ác của người đó trước sau đều hiện rõ ra trong kiếng, hết đường chối cãi, phải bị xử phạt xứng đáng.
(9) Rừng đao kiếm: Rừng cây mà từ thân, nhánh, lá, bông, trái đều bằng gươm đao hết. Người trên thế gian làm nghề đồ tể, hoặc săn bắn khi chết bị đọa vào đây, thấy có thú dữ rượt bắt, sợ quá leo lên cây trốn. Kế đó có gió mạnh thổi tới, toàn thể cây đều hóa ra gươm, đao theo sức gió mà khua động chém người đó nát ra từng miếng nhỏ.
(10) Bị đọa làm thú vật mang lông, đội sừng (như trâu, bò vv…)
(11) Những kẻ kiêu ngạo khinh chê, hủy báng Tam Bảo.
(12) Cô phần: Nấm mộ, mã người chết.
(13) Trong tâm mình sẳn có Phật (tánh) rồi. Đất từ bi đây là Tâm địa (như trong kinh Tâm địa quán dạy vậy)
(14) Người học Phật đã biết cõi đời này là mộng, tất cả sự việc đều chẳng bền như đồ vật trong chiêm bao (mộng) rồi thì đừng có bám theo mộng đó (người đời do ngu mê nên sống trong mộng (giả dối) mà cứ tưởng là thiệt).
(15) Biết giải thoát là chơn thì nên tu theo lời Phật dạy để bỏ giả cõi trần mà quay về cảnh chơn nơi cõi Phật.
(16) Sáu chữ Phật: là lục tự Di đà tức là câu “Nam mô A Di Đà Phật”.
(17) Diêm lão: là vua Diêm Vương, cứ y theo tội mà xử chẳng có dung tha.
(18) Xin hãy tin theo lời Phật dạy, thánh dạy (mà phản tỉnh tu hành) đừng nghe theo các lời tà ma, ngoại đạo.
(19) Rỗi rãnh, ưu du: Làm biếng nhác (ưu du) ý của câu này nói phải nên siêng tu.
Sau khi khoá I Cao đẳng Phật pháp bế giảng rồi (và trước khi chuẩn bị mở khóa II kế tiếp) thì Hòa Thượng hội chủ THÍCH THIỆN HÒA (Viện trưởng Viện hóa đạo kiêm Trụ trì Ấn Quang tự), Hòa thượng THÍCH THIỆN HOA (Đốc giáo Phật học đường Nam Việt) và ban giảng sư của Phật học đường hội hợp tất cả 13 vị Đại Đức Tăng sinh tốt nghiệp lại phân phối và giao phó cho trách nhiệm xứng hợp theo khả năng chuyên môn của mỗi vị hầu cho việc hoằng dương đạo pháp được rộng rãi và mau chóng có kết quả hơn.
Trong đó cố Hòa thượng được chỉ định giữ trọng trách hoằng dương về môn Tịnh Độ.
Trước chư vị tôn sư, giáo thọ, cố Hòa thượng quỳ đảnh lễ và xin được nhập thất chuyên tu về Tịnh Độ thêm một thời gian nữa vì hiện tại ngài thấy sức tu của mình hãy còn quá yếu kém, nếu đứng ra đảm nhận trách nhiệm liền bây giờ thì e rằng không thể nào kham nổi.
Mặc dù nhiều phen được sự khuyến nhắc và an ủi từ nơi Hòa thượng Hội chủ và Hòa thượng Đốc giáo nhưng ngài vẫn không đổi ý định nhập thất chuyên tu của mình. Biết không thể nào lay chuyển được quyết tâm của ngài, Hòa thượng Hội chủ (và cũng là thầy cầu pháp của ngài nữa) mới phán rằng:
- Này Thiền Tâm, con muốn nhập thất chuyên tu thêm thì thầy đây cũng không ép, nhưng ta cho con một thời gian nào đó thôi. Hễ khi nào ta thấy vừa đủ, hoặc là giáo hội có việc cần đến khả năng chuyên môn của con và ta cho người đến thỉnh thì con phải trở về liền chớ không được chối từ lần nào nữa hết nghe không?
Con nên nhớ, ơn thầy, tổ, ơn giáo hội đào tạo cho con thành tài thì con phải đền đáp lại. Ta đây tuổi đời ngày càng cao, sức khỏe ngày càng kém, con đừng để cho tấm thân già của ta phải bị lâm vào cảnh “Trâu già chẳng nệ dao phay” nghe …
Cố Hòa thượng đảnh lễ phục mệnh và trước chư vị tôn sư trong ban giáo thọ ngài hứa sẽ y giáo phụng hành, sau này nếu như giáo hội có việc cần đến thì sẽ trở về để cùng chung lo và trực tiếp gánh vác Phật sự chớ không dám từ nan thêm nữa.
Và rồi sau đó …
Ngài rời Phật học viện lên đường, chọn trụ xứ thích hợp để nhập thất tịnh tu.
Trước hết ngài trở về Mỹ Tho, đến quận Cái Bè cất cốc, nhập thất chuyên tu về Tịnh độ (1955) liên tiếp trong 5 năm (1955-1960). Thời gian này mặc dù bị rất nhiều chướng duyên, ma khảo (như bị dèm pha, nói xấu, vu bang, hủy nhục, v.v…) nhưng ngài vẫn không sờn lòng hay thối chuyển, mà trái lại hơn bao giờ hết, ngài càng kiên cường giữ vững chí nguyện và quyết tâm “Hạ thủ công phu” cho việc tu tập của mình.
Trong 5 năm nhập thất nơi trụ xứ này, mặc dù đêm ngày chuyên cần tu niệm, nhưng ngài cũng không vì đó mà quên mất đi bi nguyện độ sanh của mình. Thời gian 5 năm tại đây ngài đã dịch thuật xong quyển:
1. “Ấn Quang Văn Sao” của Ấn Quang Đại Sư, vị tổ thứ 13 của tông Tịnh độ, dưới đề tựa là “ LÁ THƯ TỊNH ĐỘ” (1956) dài khoảng 200 trang, bằng một lối hành văn cực kỳ nhẹ nhàng, trong sáng, bình dị mà không quê mùa, cao siêu mà không khó hiểu, (Trong tất cả các bậc thầy đương kim, chỉ riêng mỗi một mình cố Hòa Thượng là có cách hành văn đặc biệt này mà thôi). Qua quyển “Lá thư Tịnh độ” này, ngài đã khai quang được một số lớn vấn đề “bị nghi ngờ” của pháp môn Tịnh Độ, khiến cho rất nhiều tín đồ Phật giáo đương thời hiểu rõ thêm cùng phát tâm tin tưởng và thực hành việc niệm Phật, cầu nguyện vãng sanh.
2. Kế tiếp đến từ năm 1957  1959 ngài hoàn tất công việc soạn thuật bộ “TỊNH HỌC TÂN LƯƠNG” gồm có 2 quyển dài gần 800 trang giấy.
Sao gọi là Tịnh độ Tân lương?
Y theo đề tựa của bộ sách mà thích nghĩa Tịnh độ là môn học dạy về Tịnh độ  Tân lương là món lương thực mới của mình.
Mà nếu như đã gọi là: “Lương thực mới”. Tất nhiên cũng phải có “lương thực cũ”.
- Thế nào gọi là lương thực cũ và lương thực mới?
- Lương thực cũ đây là gạo, đường, dưa, muối, v.v... cùng với các thứ thực phẩm ăn uống khác nữa của người đời dùng để trưởng dưỡng sắc thân. Sở dĩ gọi là cũ vì nó đã có từ lâu xa lắm rồi (tức là vật thực).
- Lương thực mới đây là món ăn tinh thần của Phật dạy bảo và lưu hậu lại (gọi là pháp thực) đây là một thứ thức ăn mới (tân lương) mà hầu như tất cả chúng sanh trên cõi đời này ít ai hiểu biết và chịu ăn nó cả, ngoại trừ các bậc trí huệ, có căn tu sâu dầy và nghe theo lời Phật dạy, muốn được giải thoát như Phật mới chịu ăn món “tân lương pháp thực” này mà thôi.
Trong bộ sách cố Hoà Thượng đã chỉ dẫn cặn kẽ và hiển bày ra cho tất cả các hàng tứ chúng thấy rõ sự lợi ích thiết thực của pháp môn Tịnh độ cùng với sự việc hiện đời đới nghiệp vãng sanh bằng cách trì niệm hồng danh của đức Phật A Di Đà nơi cõi Tây Phương Cực lạc thế giới xứng hợp với 48 đại nguyện của ngài.
Đến đây ta thấy gì?
- Ta thấy rằng mặc dù ngài bận nhập thất tịnh tu, mới thoáng nghe qua thì tưởng đâu ngài là người tiêu cực, vô trách nhiệm, hay đi sai với đường lối của giáo hội và các bậc Thầy Tổ (lúc bấy giờ), nhưng thật ra bằng vào phương pháp phiên dịch kinh điển và viết sách hoằng dương Tịnh độ như thế này, ngài đã làm lợi ích cho Phật tử nhiều gấp trăm, ngàn lần của một vị trụ trì bình thường nơi chùa to, đền rộng nữa.
Đây là hai bộ sách hiển dương giáo pháp Tịnh độ đầu tiên của Đại Đức Liên Du Thích Thiền Tâm sau 5 năm rời khỏi ghế nhà trường và tiến bước trên con đường vừa tinh cần tu học vừa hoằng dương đạo pháp. Đặc biệt là giáo môn Tịnh độ.
- Khoảng thời gian kế tiếp (từ giữa năm 1960 cho đến cuối năm 1962) ngài chuyển về vùng Vang Qưới ở tỉnh Bến Tre nhập thất thất tịnh tu tiếp. Trong thời gian hai năm nhập thất tại nơi đây, cố Hòa thượng đã hoàn tất việc phiên dịch các bộ sách có tánh cách hiển dương rộng rãi vế giáo môn Tịnh độ sau đây:
1. HƯƠNG QUÊ CỰC LẠC
Đây là một quyển sách nhỏ dài khoảng 100 trang, nội dung trích lục lại các lời dạy của chư Phật, chư Bồ tát và chư Tổ sư về pháp môn Tịnh độ (toát yếu) xứng với tên của quyển sách, (Hương quê Cực lạc là món ăn quê hương của miền Cực lạc) làm kim chỉ nam cho người tu Tịnh độ).
Trong đây có phần tựa đề vịnh về giáo môn Tịnh độ rất là chí thiết như sau:
(trích lược)
Trôi nổi lìa cha mấy hạ, đông,
Trời TÂY gia nghiệp nguyện làm xong.
Tay vàng mong tưởng ơn dìu dắt,
Dám để TỪ TÔN mỏi mắt trông.

Khổ nhiều vui ít cõi Ta bà,
Muốn thoát trầm luân dễ được mà.
Lãng tử về quê lòng rộn rã,
Cha lành xem lại thật Di Đà.

Bảy hàng cây báu ánh lòa lòa,
Chín phẩm sen vàng bốn sắc hoa.
Nhiếp cả sáu căn thành tịnh niệm,
Mới hay AN DƯỠNG thật quê nhà.
Liên du THÍCH THIỀN TÂM (Dịch)
2. TỊNH ĐỘ THẬP NGHI LUẬN:
Đây là một quyển sách giải đáp hầu hết các mối thắc mắc và hoài nghi về tông Tịnh độ của những người học Phật đương thời. Nhờ vậy mà pháp môn niệm phật càng ngày càng được quảng bá rộng rãi hơn và số người tu theo Tịnh độ mỗi lúc mỗi một nhiều thêm.
3. Soạn ra một phương pháp tu Tịnh độ cho các Phật tử tu tập tên là: TỊNH ĐỘ PHÁP NGHI.
- Giai đoạn thứ ba trong việc nhập thất của ngài là từ đầu năm 1963 cho đến đầu năm 1964 tại Tịnh Giác Duyên (Chợ Gạo  Mỹ Tho).
Thời gian một năm sau cùng tịnh tu tại đây, ngài đã phiên dịch xong bộ kinh QUÁN VÔ LƯỢNG THỌ(Thập lục Quán kinh) một trong ba quyển kinh chánh yếu của giáo môn Tịnh độ, giải bày và hiển rõ về Thế giới Cực Lạc của đức A Di Đà Phật tại phương Tây. Qua quyển kinh này, ngài đã khiến cho vô số người thời bấy giờ (và cả đến về sau nữa) phát tâm bất thối chuyển tu theo pháp môn Tịnh độ.
- Kế tiếp đến là ngài phiên dịch và hoàn tất quyển: PHẬT THUYẾT THIỆN ÁC NHƠN QUẢ BÁO ỨNG KINH (theo thể điệu văn vần) dạy cho chư Phật tử nói riêng và chung cho mọi người thấy rõ lẽ nhân quả báo ứng của các hành động Thiệc ác.
Đến đây, một lần nữa ta thấy gì qua việc hoằng pháp của ngài trong vòng 10 năm nhập thất tịnh tu?
- Ta thấy rằng: suốt trong thời gian nhập thất đó, ngài vừa tự tu vừa lo việc hóa đạo với 6 quyển kinh, luận, và một pháp nghi tu Tịnh độ mà trong đó ngài vừa phiên dịch, vừa trước tác, vừa soạn thuật đã đem lại lợi ích rất nhiều cho chư Phật tử, góp thêm vào những viên gạch vàng để xây dựng cho nền tảng của Giáo Hội Phật giáo Việt Nam hiện tại và cả ở tương lai.
Vào khoảng sau Tết năm 1964...
Lúc đó trên Sài gòn, tại Viện Hóa Đạo nơi Chùa Ấn Quang, Hòa thượng Hội chủ THÍCH THIỆN HÒA cùng với Giáo Hội đã hình thành được một dự án quan trọng cho việc đào tạo tăng tài để làm nồng cốt cho việc hoằng hóa Phật pháp về sau.
Bởi sau khi các khóa Phật pháp cao đẳng I, II, III tại Phật học đường NAM VIỆT đã đào tạo được khoảng chừng 50 vị Thượng Tọa nổi danh và có thực tài về Phật học rồi  mấy năm kế tiếp đó vì tình trạng chiến tranh (nội chiến giữa hai miền Nam Bắc) cùng với các biến loạn về chánh trị trong nước và riêng tại Sài gòn đã làm cho việc Hóa đạo và đào tạo chư tăng ni của Giáo hội bị ảnh hưởng chậm trễ rất nhiều, có thể xem như là bị gián đoạn hẳn trong một thời gian dài kể từ năm 1959 đến nay (1964).
Sau năm 1963 (chế độ của họ Ngô Đình bị sụp đổ qua cuộc đảo chánh) thì Phật giáo mới bắt đầu ổn định trở lại. Các thầy lớn trong Phật học đường Nam Việt khi xưa mà đại diện là Hòa thượng THÍCH THIỆN HÒA quyết định tái tục lại chương trình đào tạo tăng tài thế hệ mới để chuẩn bị thay thế quý ngài(nay vốn tuổi đã cao và yếu kém sức khỏe). Bởi quý Ngài nghĩ rằng nếu không làm như thế thì hỏi ai là những người có đủ khả năng để tiếp nối chúng ta trong công việc hoằng dương và bảo tồn đạo pháp sau ngày chúng ta “cỡi hạc quy tiên hay về chầu Phật tổ”?
Và rồi chương trình thành lập một: “VIỆN TRUNG ĐẲNG CHUYÊN BIỆT PHẬT HỌC” được thành hình.
Địa điểm tuyển chọn là AN DƯỠNG ĐỊA (tức là Chùa Huệ nghiêm ngày nay) tại Phú Lâm, gần Xa Cảng miền Tây, thuộc ngoại ô thành phố Sài gòn.
Khi bắt đầu xúc tiến chương trình Hòa Thượng Hội chủ mới tự nghĩ rằng:
- Ai là người có đầy đủ khả năng để đứng ra gánh vác và điều hành việc Phật sự quan trọng này?
Và người đầu tiên Hòa Thượng nghĩ đến là Thượng Tọa Thích Thiền Tâm, chỉ có “NÓ” mới đủ sức mà thôi. Và tiếp theo đó Hòa thượng cũng nghĩ nhớ đến rằng.
- Khi xưa lúc xin phép ta đi nhập thất tịnh tu “NÓ” có hứa là sau này sẽ trở về gánh vác Phật sự và nếu như giáo hội có việc cần đến thì sẽ không có lý do nào để từ nan thêm nữa.
Bây giờ đã đến lúc TA và Giáo hội cần đến “NÓ”. Vậy thì ta còn chần chừ gì nữa mà không triệu “NÓ” trở về. (Ngoài ra Hòa Thượng còn nghĩ thêm đến 2 vị khác trong khoá I Cao đẳng Phật học khi xưa là TT.THÍCH BỬU HUỆ và TT. THÍCH THANH TỪ nữa).
Vì suy nghĩ như thế nên sau đó Hòa Thượng cho đại diện mang thơ của NGÀI đến chỗ hai vị THIỀN TÂM và BỬU HUỆ đang nhập thất ẩn tu, truyền lịnh triệu hồi.
Trong thơ “triệu hồi” gởi cho cố Hòa Thượng có mấy câu chí tình của NGÀI như sau:
“Như lời con hứa năm xưa … nhận được thơ của TA con hãy mau sắp xếp trở về, … lo việc Phật sự... đừng để cho TA mong đợi, … chớ nên để cho tấm thân già của TA đây phải bị lâm vào trong cảnh “Trâu già không nệ dao phay” thêm nữa...
Nhận được “Triệu hồi thư” của ân sư gởi đến và đọc xong những lời lẽ chí tình của NGÀI, cố Hòa Thượng bâng khuâng cảm động, và nghĩ nhớ lại bổn phận của mình đã từ lâu “thiếu sót” đối với Ân Sư(là Hòa thượng hội chủ) … Vả lại trong ba vị Sư phụ của mình khi xưa thì ngày nay hai vị đã viên tịch rồi (Hòa thượng PHẤT ẤN và Hòa thượng THÀNH ĐẠO) chỉ còn lại có một vị sư phụ sau cùng đây thôi. Ơn đức của THẦY ta chưa đền báo.
Và do vì nghĩ như thế nên ngài thu xếp lại mọi việc trở về Sài Gòn, đến Ấn Quang tự đảnh lễ Sư phụ THÍCH THIỆN HÒA và nhận lãnh trách nhiệm (cùng với hai bạn đồng song là Bửu Huệ và Thanh Từ) bắt tay vào việc thành lập: “VIỆN TRUNG ĐẲNG CHUYÊN BIỆT PHẬT HỌC” tại Chùa Huệ Nghiêm. (Sau này đổi tên lại là viện Cao đẳng PHẬT HỌC HUỆ NGHIÊM).
Trường bắt đầu hoạt động vào giữa năm 1964.
- Thượng Tọa THÍCH THIẾN TÂM giữ chức Viện trưởng Kiêm đốc giáo của Phật học viện. (Trưởng giáo).
- Thượng tọa THÍCH BỬU HUỆ và THÍCH THANH TỪ làm phụ tá.
Vì sao gọi là “Chuyên biệt Phật học”?
- Sở dĩ gọi tên “Chuyên biệt Phật học” bởi vì tôn chỉ của trường (trước và sau khi thành hình cùng hoạt động) là chỉ thuần dạy về “NỘI ĐIỂN” TỨC LÀ Kinh pháp và giáo lý cho Chư Tăng ni mà thôi, tuyệt nhiên không có xen lẫn vào bất cứ một bộ môn nào khác (như chánh trị chẳng hạn).
Vì vậy cho nên mới được danh xưng là “Chuyên biệt Phật học” và chỉ thuần túy đào tạo tăng tài cho giáo hội trong chức năng “Như Lai xứ giả” sau này. (Viện Phật học chuyên biệt Huệ Nghiêm đào tạo cả 3 trình độ Phật pháp: Sơ đẳng – Trung đẳng và Cao đẳng). Qua sự điều khiển và hướng dẫn của ngài trường hoạt động rất tốt đẹp. Hàng trăm học chúng các nơi của hai miền Trung và Nam lần lượt tựu về ghi danh theo học.
Nhận thấy nếu chỉ thuần học nội điển không mà thiếu trình độ văn hóa phụ vào thì sau này các viện hóa đạo như giảng kinh, viết sách Phật học v.v… sẽ không được khởi sắc cho lắm. Hơn nữa ngài cũng nhớ lại trường hợp của mình khi xưa (lúc còn ở Vĩnh Tràng tự, nếu như bổn sư PHẤT ẤN Hòa Thượng không khuyến khích học ngoại điển thì mình làm sao được như bây giờ). Thêm vào nữa là đa phần các Phật tử đời nay thường mong tâm kiêu mạn, ưu trề nhún chê khen quý thầy, như là: đấy chỉ là một thầy tu dốt nát, thất học chưa xong hết sơ học trường làng …
Hoặc: nói năng vấp váp, trình bày, thuyết giảng lộng cộng không thông suốt v.v...
Đại khái là vậy.
Vì muốn tránh các trường hợp như thế xảy ra (sau này) vả lại vì cũng muốn nâng đỡ cho tất cả tăng sinh của Học Viện Huệ Nghiêm (là hậu thân của Phật học đường Nam Việt trước kia) giỏi cả hai mặt đời và đạo, nên ngài quyết định mở thêm việc học ngoại điển (học văn hóa phổ thông theo như chương trình hiện hành của Bộ Quốc gia Giáo dục) cho chư Tăng sinh học chúng của trường.
Qua dự án này, ngài cho mời các vị giáo sư chuyên môn và danh tiếng của các trường Trung học ngoài đời đến Phật học viện dạy cho chư Tăng.
Các bộ môn cần thiết như Đại số, Hình học, Vật lý, Hoá học, Vạn vật, Sử ký, Địa dư, Văn chương, Sinh ngữ, Triết học v.v… đều được đem ra dạy cho chư Tăng học hết.
(Chính nhờ vào chương trình này cho nên hấu hết chư Tăng sinh của Phật học viện Huệ Nghiêm đều tương đối giỏi về văn hóa (phổ thông) người thấp nhất cũng đã xong được trình độ của lớp 9,10).
Hòa thượng Hội chủ kiêm Viện trưởng, Trụ trì Viện Hóa đạo và Ấn Quang tự THÍCH THIỆN HÒA cùng với một số quý thầy lớn khác của Phật học đường NAM VIỆT khi xưa (còn sót lại vài ba vị) đều rất lấy làm vui mừng và an ủi khi thấy các học trò cũ của mình ngày nào nay đã nối tiếp được đường lối và chí nguyện của quý NGÀI trong việc giáo hóa và đào tạo chư Tăng cho thế hệ kế tiếp.
Kể từ nay, quý NGÀI đã có thể an tâm tĩnh dưỡng tuổi già và cực lực tu hành cho việc giải thoát mai hậu trong những chuỗi ngày tàn còn sót lại của cuộc đời mình.
Còn riêng về cá nhân của cố Hòa Thượng, trong chức vụ Đốc Giáo của Phật học viện, thì nhờ vào tài năng, kiến thức, uy tín, đức hạnh, lòng từ bi cùng sự tổ chức, lãnh đạo khéo léo của ngài và 2 vị phụ tá nên Học viện càng ngày càng thêm nổi tiếng khắp nơi trong nước. Từ trong Nam ra đến ngoài Trung (và ngược lại) trong các chốn tòng lâm, mỗi khi nhắc đến Viện Cao đẳng Phật học Huệ Nghiêm thì mọi người đều biết rằng đây là một Phật học đường chuyên đào tạo Tăng Tài cho Giáo hội, quy mô không kém gì PHẬT HỌC ĐƯỜNG NAM VIỆT xưa kia.
(Giáo Hội Phật giáo Việt Nam Thống Nhất lúc bấy giờ rất hoan hỷ và hài lòng về Phật học đường Huệ Nghiêm này).
Vì muốn báo đền ơn đức của các sư phụ (như bổn sư, thế độ sư, giáo thọ sư, cầu pháp sư, y chỉ sư v.v…) cùng công ơn đào tạo của Giáo Hội và đàn na tín cúng cho nên trong thời gian này cố Hòa Thượng còn đảm trách thêm các nhiệm vụ khác mà Giáo Hội và Viện Hóa Đạo giao phó nữa, như là:
- Giảng dạy Phật Pháp tại phân khoa Phật học Viện Đại học Vạn Hạnh.
- Giáo thọ sư tại các ni trường Dược Sư và Từ Nghiêm. (Đào tạo được rất nhiều ni sư lỗi lạc cho ni bộ Bắc Tông). Trong giai đoạn này, mặc dầu luôn bận rộn với chức vụ và các chương trình giảng dạy nhưng không vì thế mà ngài quên đi công việc hoằng pháp lợi sanh của mình, do vậy nên ngài vẫn tiếp tục soạn thuật và phiên dịch thêm kinh sách để cho chư Tăng ni và các Phật tử có được đầy đủ thêm tài liệu tu học.
Thời gian từ năm 1964  1967, trước sau ngài đã hoàn thành được các bộ kinh, sách sau đây:
- Năm 1964 – 1965: Hoàn thành công việc soạn thuật bộ sách “PHẬT HỌC TINH YẾU” gồm có 3 thiên (quyển 1, 2, 3) dài trên 1.200 trang. Qua bộ sách này ngài đã gom được vào trong đó một số lớn những đề mục quan yếu trích từ trong các kinh điển mà hàng tứ chúng rất cần thiết phải biết đến, phải học hiểu cho cuộc đời tu hành, hoằng pháp và kiện toàn thêm các kiến thức về Phật pháp căn bản (Trung đẳng)của mình.
- Năm 1965 – 1966: Ngài hoàn tất việc biên soạn quyển “NIỆM PHẬT THẬP YẾU” gồm có 10 chương dài gần 400 trang (Kể luôn cả các phần bổ túc sau này trên 50 trang (1979-1980) (Các ấn bản đang lưu hành hiện nay đều thiếu mất phần bổ túc quan trọng này)
Trong quyển sách này ngài đã giải thích, hướng dẫn và giảng dạy cặn kẽ (đến mức cùng cực) về pháp môn Tịnh độ mà từ trước đến nay chưa có một vị đại sư nào (kể luôn cả các vị thầy lớn (tổ) khi xưa (của Giáo hội Phật giáo Việt Nam) và ngay chính đến các sư phụ của ngài trong Phật học đường Nam Việt trước kia nữa) mà có thể hoằng dương được giáo môn Tịnh độ một cách quy mô và rõ ràng tới tận cùng xương tủy như thế cả.
Cho đến ngày hôm nay (và có thể là mãi mãi về sau) quyển NIỆM PHẬT THẬP YẾU của Cố Hòa Thượng bao giờ cũng vẫn luôn luôn là một quyển sách hoằng dương Tịnh độ (Tông) có giá trị và nổi tiếng bậc nhất (so với các sách cùng loại của Phật giáo Việt Nam). Được xem như là một quyển sách “Gối đầu(nằm) của Phật tử chuyên tu Tịnh độ.
- Năm 1966 – 1967: Hai quyển kinh sách sau đây được hoàn tất:
1. DUY THỨC HỌC CƯƠNG YẾU (biên soạn) dài gần 300 trang - quyển sách này giảng dạy hầu hết các phần quan yếu trong bộ môn Duy thức học.
2. ĐẠI BI TÂM ĐÀ RA NI KINH: (Còn gọi là Thiên thủ, Thiên nhãn Vô ngại Đại bi Tâm Đà ra ni kinh) dài trên 150 trang – đây là một quyển kinh Mật tông, giảng dạy và hiển dương về oai lực của chú Đại bi, một thần chú rất phổ thông đang được dùng trong hầu hết các khóa lễ hiện nay nơi Phật tự.
(Đấy là chưa kể đến các bài vở Giáo khoa do ngài biên soạn ra để dạy trong 3 trình độ Sơ đẳng, Trung đẳng và Cao đẳng cho các Tăng sinh nơi Phật học viện Huệ nghiêm, các Ni trường Dược Sư – Từ Nghiêm và Viện Đại học Vạn Hạnh – các bài vở này nếu gom lại có thể dài đến hơn ngàn trang giấy.)
Một lần nữa đến đây ta nhận thấy gì?
- Ta nhận thấy rằng cố Hòa thượng quả nhiên là một bậc thầy lớn, một bậc đại sư về Phật học. Đối với đạo pháp và chư Phật tử lúc nào ngài cũng quan hoài đến bằng một tấm lòng trân trọng và thương sót chí tình, chí đạo mà trong đó tâm của ngài tuyệt nhiên chẳng hề khởi lên một ý niệm cầu tìm nào dù là một chút nhỏ về các việc phù tục lợi danh. (như một số lớn chư tăng đương thời vướng phải)
PHẦN IV: GIAI ĐOẠN ẨN TU
(Nguyên nhân)


Có hai nguyên nhân chánh yếu đưa tới việc quyết định “Ẩn tu” của cố Hòa thượng.
Nơi đây Bảo Đăng tôi xin được trình bày như sau:
(Theo sự kể lại từ nơi một số đệ tử xuất gia và tại gia thân cận của ngài mà trong 2 lần về Việt Nam Bảo Đăng đã được tiếp xúc, phỏng vấn, ghi âm, và thu hình cùng với sự tường thuật lại của người cháu ruột kiêm đệ tử ngài là ĐĐ. Bổn sư THÍCH HẢI QUANG).
A. NGUYÊN NHÂN GẦN
(Chỉ nhắc lại các giai đoạn và một số sự việc có liên quan đến ngài vào thời gian sau này mà thôi, tức là từ sau năm 1964 – trước đó không kể).
Như chư độc giả đã biết qua trong các phần trước là cố Hòa thượng chỉ vì muốn báo đền ơn đức cho Thầy Tổ, giáo hội và đàn na tín thí nên mới rời khỏi nơi nhập thất, trở về Sài Gòn đảm nhận trách nhiệm từ Viện Hóa Đạo để thành lập, điều hành cùng đào tạo tăng tài cho Giáo hội tại Viện Cao Đẳng Phật học Huệ Nghiêm (từ năm 1964).
Thời gian này các tình hình rối loạn nội bộ của quốc gia cùng với những sự xáo trộn, tranh giành quyền hành lẫn nhau giữa các phe nhóm, đảng phái chánh trị đối với chính quyền quân nhân, mà trong đó tôn giáo (Phật Giáo – Công Giáo – Tin Lành) sinh viên, thanh niên, học sinh v.v… cũng có tham dự vào. Tóm lại là tình trạng đất nước vào giai đoạn này rất hỗn loạn và phức tạp (Việc này mọi người đều biết hết, nhứt là những người của gần 3 thập niên về trước).
Riêng về Phật Giáo thì...
- Một số quý thầy lớn (thuộc miền V-Ngh  Bắc) như thầy TC-HĐ-QĐ v.v…
- TQ – TM (Trung  Huế) và còn nhiều vị khác nữa, nhưng vì các việc đó không phải là trọng tâm chánh của quyển sách này nên không nói ra nhiều để tránh dài dòng cùng những sự đụng chạm cá nhân (có thể). Đa số các vị này đều tạm trú tại AQ và mượn danh nghĩa của Giáo hội để khởi xướng phong trào chống đối chánh quyền (quân nhân) lâm thời, đòi yêu sách cho Phật Giáo!
Đại khái là từ giai đoạn này trở đi (cho chí đến năm Ất Mão 1975) chẳng những hoàn cảnh xã hội, đất nước rối ren, dân chúng bên ngoài bị ảnh hưởng không thôi, mà thậm chí cho đến cả những người xuất gia trong đường đạo cũng bị cuốn lôi theo dòng thời cuộc, tức là bị liên quan vào các việc xuống đường, biểu tình, chống đối chính phủ v.v... Vả lại cũng có một số quý thầy lớn (phe diều hâu) vì muốn mau chóng được việc nên họ không ngại ngùng gì tìm đủ mọi cách để vận động thế lực, tạo thêm vây cánh cho mình, ngay cả đến việc vào trong Phật Học Viện vận động chư học tăng đứng về phe nhóm của họ nữa. Vì thế nên có một số tăng sinh trẻ tuổi, bồng bột kém suy nghĩ tại viện Cao Đẳng Phật học Huệ Nghiêm cũng bị cuốn theo vào dòng (thác lũ) chánh trị đó.
Đốc Giáo của Phật học Viện là Thượng Tọa THÍCH THIỀN TÂM không được hài lòng cho lắm khi thấy chánh trị đã bắt đầu xâm nhập vào trong Phật học đường mà đây lại chính là một “Viện Chuyên Biệt Phật Học” chỉ lo giáo hóa thuần túy về đạo pháp.
Là một vị tu sĩ chân chánh, nêu phần mô phạm và cương kỷ trong đạo nên ngài muốn và chủ trương rằng:
- Một khi đã cạo tóc xuất gia rồi, thì phải giữ vững lập trường và chí nguyện giải thoát ban đầu của mình, triệt để tuân theo lời Phật dạy, là lo chân thật tu hành, dầu cho có chết đi chăng nữa cũng không được “thay lòng, đổi dạ”.
Qua tôn chỉ đó và dưới sự lãnh đạo của ngài, ngài nghiêm cấm cũng như không chấp nhận bất cứ một tăng sinh nào của Phật Học Viện được phép tham dự vào trong các cuộc xuống đường, biểu tình hay hoan hô, đả đảo … hết.
Đã có nhiều lần, một số lớn (gần phân nửa) tăng sinh của Phật học viện đến thưa với ngài rằng:
- Bạch Thượng Tọa, xin cho phép chúng con được vào Sài Gòn tham dự cuộc xuống đường hôm nay để làm tăng thêm “sức mạnh” của Phật Giáo!
Ngài nghiêm sắc mặt chối từ (và liền sau đó giảng cho các vị ấy một thời giáo lý ngắn về bổn phận của người tu sĩ xuất gia).
Nhiều lần xin như thế …
Và cũng nhiều lần ngài từ chối cùng nghiêm cấm như thế.
Việc làm chơn chính, sáng suốt này của ngài để bảo vệ trường, bảo vệ chư học tăng và duy trì mạng mạch truyền thống của Phật Giáo như thế, lẽ ra phải được tán đồng và khích lệ, nhưng ngược lại là ngài chỉ nhận được thêm những lời chỉ trích chua cay …
Đại lược như:
- Thầy Thích Thiền Tâm là một con người yếu mềm, khiếp nhược …
- Thượng Tọa Thiền Tâm không có lòng “tương trợ” đối với giáo hội và bạn bè …
Hoặc là:
- Ối! Bỏ ông ấy qua một bên đi, ổng chỉ là một con chim bồ câu thôi, làm được gì cho Phật giáo nhờ cậy chớ, thời buổi này mà cứ như ổng thì có ngày bị vặt lông làm bồ câu hầm, bồ câu rô ti đó …
Ngay chính cả trong Phật Học Viện, một số tăng sinh có tinh thần “diều hâu”cũng nghe theo các lời xúi giục bên ngoài mà nói xầm xì rằng Trưởng giáo của chúng mình là một con người “ý chí khiếp nhược”, không có tinh thần “đồng đạo” …
Những lời cay đắng đại loại như thế hãy còn nhiều nữa …
Và Thượng Tọa Đốc Giáo cảm thấy buồn, thương xót cho Phật pháp trong thời buổi suy thoái nhiễu nhương này. Ngài tự thấy các lời dạy bảo và răn cấm chính đáng của mình cũng chỉ là một “tiếng vang trong sa mạc” mà thôi, chớ không được chút gì ảnh hưởng hết.
Sau nhiều ngày đêm suy nghĩ, ngài quyết định từ chức, ẩn tu (để cho khỏi thấy, nghe thêm các cảnh trái mắt, não lòng).
Đây là “nguyên nhân gần” về việc ẩn tu của cố Hòa thượng.
B. NGUYÊN NHÂN XA
Có 2 nguyên nhân xa:
1. Vì thấy trái lời Phật dạy.
2. Vì muốn tu tiến đạo và giải thoát.
1. VÌ THẤY TRÁI LỜI PHẬT DẠY:
a) Đối với NGƯỜI XUẤT GIA:
Là một bậc Đại Sư Phật học, Đốc giáo một Phật Học Viện có tiếng tăm vang dậy khắp nơi, là một vị đại tăng giới hạnh tinh nghiêm, chơn thật tu hành và thông suốt kinh điển, nhân nơi mắt thấy, tai nghe qua các việc làm phi đạo của quý thầy (diều hâu) như xách động biểu tình, chống đối chánh phủ, thuyết pháp mà không có pháp v.v… (thời thuyết pháp của họ chỉ thuần có các lời hung hăng cay đắng chỉ trích chánh quyền, khích động sự phẫn uất của dân chúng và Phật tử, kết cuộc là đưa đến sự biểu tình liền sau đó mà thôi. Việc này chính người viết tôi (và còn rất nhiều người khác trong giai đoạn này nữa là nhân chứng xác thực nhất.)) như thế, ngài mới sực nhớ lại lời Phật dạy rằng:
“Lại này Xá Lợi Phật, đời sau, các đệ tử của ta ít có Tỳ kheo nào mà trong thâm tâm mong cầu pháp Niết bàn tịch mịch, phần đông đều y theo ba sự nghiệp sau đây:
- Một là thường thích cầu danh lợi thế gian.
- Hai là tham ưa bè đảng, theo cầu thí chủ, qua lại chẳng ngớt.
- Ba là ưa thích nhà cao, cửa đẹp, chứa chất của tiền, vàng bạc, châu báu và các thứ đồ dùng.
Đây là y chỉ theo cầu ba sự.
Này Xá lợi Phất, Các Tỳ kheo ấy vì y chỉ ba sự như vậy cho nên không thoát khỏi ba ác đạo.
Này Xá lợi Phất, Các Tỳ kheo ấy chẳng muốn thoát khỏi bàng sanh, địa ngục, ngạ quỷ, mà trái lại họ siêng tu những pháp dứt đường sanh về cõi trời, họ lại siêng làm các sự tranh luận, ly gián, chê mắng lẫn nhau, họ lại ưa gần các ác hữu lòng tin chẳng thanh tịnh, bỏ chỗ vắng mà ở nơi náo nhiệt, cùng với người tục kết bè đảng.
Các nhà tục này bảo:
- Này Trưởng lão, nên thường xuyên đến nhà tôi, tôi sẽ cung cấp tứ sự cúng dường đầy đủ. Còn nếu như các trưởng lão cứ ở nơi thanh vắng ấy, chẳng chịu giao tiếp với người tục, thì chúng tôi làm sao mà thăm hỏi được.
Vì thế cho nên các Tỳ kheo ấy ngày ngày càng thêm thân cận với người cư sĩ tại gia hơn, cùng nhau trò chuyện, toàn những sự phiền tạp thế tục.
Này Xá lợi Phất, Các Tỳ kheo ấy thích ở chung và giao thiệp với hạng người bất lương tham trước chỗ ở chẳng hề di chuyển. Họ tìm bè đảng và luôn thăm viếng nhà thí chủ, đích thân đi mừng, đi điếu, do đó mà thầm kín thân ái lẫn nhau”.
(Kinh Pháp Hội Bồ Tát Tạng  Phẩm Tỳ Lê Gia Ba la mật. Tam tạng Pháp sư Trần Huyền Trang và Thích Trí Tịch dịch).
Lại nữa cố Hòa thượng Đốc Giáo Thích Thiền Tâm cũng nhớ lại lời Phật huyền ký rằng:
- “Này A Nan, sau khi ta nhập Niết bàn rồi, trong thời gian 500 năm rốt sau, nhóm người giữ giới, y theo chánh pháp lần lần tiêu giảm, các bè đảng phá giới, làm điều phi pháp, ngày càng tăng nhiều.
Do vì chúng sanh phỉ báng chánh pháp, gây nhiều ác hạnh nên phước thọ bị tổn giảm, các tai nạn đáng kinh khiếp nổi lên. Bấy giờ có các Tỳ kheo đắm mê danh lợi, không tu thân, tâm, giới, huệ. Họ tham trước những y, bát, thức ăn, sàng tòa, phòng xá, thuốc men rồi ganh ghét, tranh giành, phỉ báng lẫn nhau, thậm chí đem nhau đến quan Ty (thưa kiện), lời nói như đao kiếm … kết cuộc bị đọa vào trong ác đạo.” (Kinh Đại Bi).
b) Đối với NGƯỜI CƯ SĨ TẠI GIA:
“Trong 500 năm sau cùng, lúc Phật pháp sắp diệt, người nữ phần nhiều tinh tấn, ưa tu những công đức. Trái lại người nam phần nhiều kém lòng tin tưởng, thường hay giải đãi, khinh mạn, không thích nghe pháp, không tu phước huệ, khi thấy hàng sa môn chân thật tu hành thì rẻ rúng chê bai, xem như bùn đất …
Trong thế gian lúc ấy khó tìm ra được người lương thiện, còn kẻ ác thú thì nhiều như cát ở bãi biển, đạo đức suy đồi, chư thiên buồn thương rơi lệ.
Này A Nan, lúc đạo pháp của ta sắp diệt, đêm ngày rút ngắn, con người đoản mệnh (chết sớm) nhiều kẻ mới bốn mươi tuổi, tóc trên đầu đã điểm bạc.
Về phần người nam, bởi nhiều dâm dật nên hay chết yểu (chết lúc tuổi còn nhỏ), trái lại người nữ sống lâu hơn. Lúc ấy có nhiều tai nạn kinh khiếp, đáng sợ nổi lên như giặc cướp, bệnh tật, bão lụt…
(Kinh Đại Bi)

2. VÌ MUỐN TU TIỀN ĐẠO VÀ GIẢI THOÁT
Ngoài việc suy nghĩ và nhớ lại các lời Phật dạy như trên, cố Hòa thượng Đốc Giáo Thích Thiền Tâm cũng còn nhớ thêm lời Phật dạy rằng:
…“Lại nữa, này Trí Quang, Bồ tát xuất gia phải xa lìa chỗ huyên náo (ồn ào), ở nơi A lan nhã [A lan nhã: Là chốn rừng núi thanh vắng mà các người tu ở. A lan nhã này còn gồm có thêm 4 nghĩa khác như sau:
- Vô tránh thanh: là nơi không có tiếng cãi cọ.
- Nhàn tịch: là nơi vắng lặng, thong thả.
- Không nhàn: là nơi trống trãi, rộng rãi, không náo nhiệt, được tự tại.
- Viễn ly xứ: là nơi xa tránh các sự bận rộn của đời.]
tu nhiếp tâm mình trong vô lượng nghìn năm để cầu Phật đạo.
Chư Như Lai trong ba đời (quá khứ, hiện tại, vị lai) đều bỏ những nơi huyên náo mà ở nơi không an nhàn, vắng lặng, tu thêm muôn hạnh, chứng quả Bồ đề. Các bậc Duyên giác (Bích Chi Phật), Thanh văn (A la hán) và hết thảy chư hiền thánh, chứng được thành quả xưa nay cũng đều ở nơi tĩnh mịch như thế.
Nơi A lan nhã có mười thắng đức, làm cho các người tu chứng được ba quả Bồ đề [Ba quả Bồ đề: Phật Bồ đề, Duyên giác Bồ đề, Thanh văn Bồ đề]. Những gì là mười thắng đức?
- Một là, được tự tại. Bởi vì A lan nhã, trong bốn uy nghi (đi, đứng, nằm, ngồi) không bị lệ thuộc nơi người khác.
- Hai là, bỏ “Ngã” và “Ngã sở”. (tức là không còn chấp ta và những cái của ta) không còn quan niệm chấp trước.
- Ba là, đối với các đồ ngồi, nằm (như giường nệm, bàn ghế) không còn ham đắm.
- Bốn là, ba độc tham, sân, si sẽ bớt đi dần dần.
- Năm là, tu hạnh xa lìa, không mong cầu ngủ dục của trời, người.
- Sáu là, ở nơi nhàn tịch, tu tập Phật đạo không tiếc thân mệnh.
- Bảy là, thích tịch tĩnh, thiện nghiệp thế gian dễ dàng thành tựu (bởi vì không có môi trường thuận tiện để phóng túng).
- Tám là, sự nghiệp giải thoát sẽ dễ dàng, không chướng ngại.
- Chín là, mau thành tựu được tam muội.
- Mười là, mau được đại trí huệ …
Trí Quang nên biết, nơi A lan nhã có vô lượng công đức như thế. Do vậy nên người Phật tử xuất gia thề bỏ thân mệnh chớ nhất định không bỏ núi rừng …
(Kinh Tâm địa quán  phẩm Vô cấu tính).
Bấy giờ đức Thế Tôn liền nói kệ rằng:
Trí Quang các ông nghe cho kỹ,
Nơi ở của người không phiền não:
Xa nơi huyên náo, ở tịch tĩnh,
Đó là những nơi thân tiên ở
Bồ tát ba đời cầu Bồ đề,
Ở nơi “lan nhã” thành chánh giác.
Duyên giác, Thanh văn các Thánh chúng,
Cũng ở nơi này chứng Bồ đề.
Ở A lan nhã được mười lợi;
Hay khiến chứng được quả tam thừa:
Du hành tự tại như Sư tử,
Trong bốn oai nghi không ràng buộc.
Dưới cây, rừng núi, bậc Thánh ưa.
Không “ngã – ngã sở” là lan nhã,
Áo mặc đồ nằm, không ràng buộc.
Ngồi “tòa sư tử”, tứ vô úy, (1)
Bỏ các phiền não là lan nhã.
Hết thảy tham ái không ham đắm,
Ở ngoài sự vật, chán trần lao.
Không còn ham mê ngủ dục lạc,
Người xa huyên náo, ưa tịch tĩnh.
Bỏ thân, xả mệnh cầu Phật đạo,
Ở nơi tịch tĩnh không tiếng người.
Tám loạn trong tâm không khởi được,
Nghiệp lành thế gian - xuất thế gian.
Tâm không chướng ngại đều thành tựu,
Bởi thế, lan nhã là căn bản.
Hay sinh tất cả thứ tam muội,
Lấy “Đại không tịch” làm hư không.
Thân tâm hành giả không chướng ngại,
Đầy đủ được mười thắng lợi ấy.
Thế nên các Thánh thường ở đó,
Trí Quang các ông, các phật tử.
Nếu muốn mau thành Nhứt thiết trí,
Cho đến trong mộng cũng không lìa:
Nơi A lan nhã: Bồ đề đạo.
Sau ta diệt độ, người muốn tu,
Thường hay ở nơi A lan nhã.
Không lâu sẽ ngồi Bảo hoa vương, (2)
Chứng được pháp thân: Thường lạc quả. (3)
(1) Tứ vô úy: Bốn cái đức dạn dĩ, chẳng sợ. Có được 4 cái đức này thì giáo hóa được tất cả chúng sanh mà lòng không khiếp sợ, chán nản.
Có hai loại tứ vô úy:
1. Tứ vô úy của Phật:
- Nhứt thiết trí vô sở úy: là có trí biết tất cả, nên không sợ bất cứ việc chi hết.
- Lậu tận vô sở úy: là có trí đức hết phiền não, nên không sợ bất cứ việc chi hết.
- Thuyết chướng đạo vô sở úy: là có trí giải hết các sự gút mắc trong đạo nên không sợ chi hết.
- Thuyết tận khổ đạo vô sở úy: là có trí giảng dạy các pháp dứt tất cả khổ nên không sợ chi hết.
2. Tứ vô úy của Bồ tát:
- Tổng trì bất vong, thuyết pháp vô úy: là giữ các pháp Phật dạy không quên, nên thuyết pháp không sợ.
- Tận tri pháp được cập tri chúng sanh căn dục, tánh tâm thuyết pháp vô úy: là biết rõ các món pháp dược trị bệnh chúng sanh, biết lòng tham muốn và căn tánh của chúng sanh, nên thuyết pháp không sợ.
- Thiện năng vấn đáp, thuyết pháp vô úy: là có tài vấn đáp nên thuyết pháp không sợ.
- Năng đoạn vật nghi, thuyết pháp vô úy: là trừ được các điều nghi của chúng sanh, nên thuyết pháp không sợ.
(2) Bảo hoa vương: Hoa sen cực quý – Đây ý nói ngồi tòa sen báu và thành Phật.
(3) Thường lạc quả: Gọi cho đủ là: Thường, lạc, ngã, tịnh – đây là 4 đức của Niết bàn.
Cố Hòa thượng suy nghĩ như thế liên tiếp suốt mấy tháng dài …
Ngài nhận thấy rằng kể từ khi về Sài Gòn đảm nhiệm các chức vụ của Giáo hội giao phó cho đến nay, đường tu của ngài chỉ đứng một chỗ thôi chớ không được tiến bộ như trước. Trách nhiệm và địa vị đã khiến cho ngài luôn bận rộn, nay tiếp xúc với Phật tử này, mai tiếp xúc với Phật tử kia, người thương, kẻ ghét, người trách, kẻ buồn. Hễ được lòng người này thì mất lòng kẻ khác, còn như muốn nói bãi buôi ngoài miệng cho được lòng hết thảy thì lại trái nghịch với tâm tánh của mình!
Và đây cũng lại là một lý do khác nữa. Khiến cho ngài khởi ý ẩn tu.
Kế đó ngài cũng suy nghĩ thêm rằng:
- Bổn phận của ta đối với Thầy Tổ, Giáo hội, Phật tử và các đàn na tín cúng, đã tròn chưa mà ta muốn đi ẩn tu?
Rồi ngài nhận thấy như sau:
1. Đối với Thầy – Tổ đã có ơn dạy dỗ, dắt dìu ta … thì ta cũng đã đáp đền lại bằng cách dạy dỗ và dẫn dắt cho các thầy khác trong đàn hậu tấn (các học chúng, học tăng) tự bấy lâu nay rồi.
2. Đối với Giáo Hội đã có công ơn đào tạo và thành tựu cho ta … thì ta cũng đã đền báo lại bằng cách tuân theo lệnh của Giáo hội, thành lập và điều hành Viện Cao Đẳng Phật học Viện Huệ Nghiêm này – dạy tại trường Đại học Phật giáo Vạn Hạnh. Ni trường Dược Sư, Từ Nghiêm, đào tạo nhiều học tăng được thành tài rồi. (Hoặc trực tiếp dạy tại Phật học viện, hoặc gián tiếp qua các kinh sách dịch thuật từ trước đến nay).
3. Đối với các Phật tử và đàn na tín cúng có ơn lo lắng, cúng dường tứ sự để cho ta được yên tâm tu học bấy lâu … thì ta cũng đã báo đền lại bằng cách giảng kinh, thuyết pháp, diễn dịch kinh sách, khuyến khích tu hành … nhiều lần rồi …
Như vậy thì bổn phận của ta cũng có thể gọi là được ít nhiều tròn đủ. Nay ta đã hơn nữa đời người rồi, tuổi đời còn lại cũng đâu có bao nhiêu. Vả lại, sống nay, chết mai nào ai biết được …
Nếu như ta lo sớm ẩn để tu hành và niệm Phật cho cực lực (hết sức) thì e rằng ngày cuối cùng sẽ không gặp lại được “Phật Hòa Thượng” năm xưa đã vì xót thương mà đóng cái “Phật ấn” của ngài trên trán (ta) mà thọ ký …
Và, sau cùng hết ngài quyết định tối hậu: “Sẽ từ chức, ẩn tu”.

C. CHUẨN BỊ TỪ CHỨC – ẨN TU
Sau khi quyết định “từ chức để ẩn tu” xong rồi, tâm ngài được an ổn và ngài sửa soạn sắp xếp để lên gặp Ân sư là Hòa Thượng Hội Chủ, Phó Tăng Thống, kiêm Viện Trưởng Viện Hóa Đạo và Trụ trì Ấn Quang Tự THÍCH THIỆN HÒA trình bạch mọi việc, xin hoàn trả chức vụ để nhập thất, bế quan ẩn tu vĩnh viễn.
Liên tiếp nhiều đêm sau đó, ngài bâng khuâng suy nghĩ rằng:
- Nay ta phải đi về nơi nào để ẩn tu đây?
Câu hỏi này cứ lập đi, lập lại trong tâm hoài khiến cho ngài bị nhiều phen trằn trọc, suy nghĩ, đắn đo. Ngài niệm Phật cầu xin gia hộ và chỉ dẫn cho nơi “trụ xứ tương lai” của mình. Ngài không muốn phải thay đổi, tới lui chỗ này, chỗ kia như thời gian nhập thất, ẩn tu của hơn 10 năm trước nữa.
Ngài chỉ muốn có được một nơi duy nhất và sau cùng để rồi ở đó tịnh tu luôn cho đến ngày quy về với Phật mà thôi.
Đêm hôm đó, sau thời khóa trì niệm và nguyện cầu Phật gia hộ (về việc này) xong. Khoảng hơn 1 giờ sáng, khi vừa đặt lưng nằm xuống một chốc, ngài mơ thấy giấc mộng như sau:
(Tường thuật lại theo lời của ĐĐ. Bổn sư Thích Hải Quang (là cháu ruột, đệ tử kiêm thị giả, đã được tự thân nghe từ nơi cố Hòa thượng kể lại trong thời gian còn hầu cận bên ngài khoảng 20 năm về trước, khi hai thầy trò, chú cháu còn hẩm hút và đùm bọc bên nhau trong cùng một gian tịnh thất nơi Phương Liên Tịnh xứ).
... Nghe có tiếng gõ cửa và niệm A Di Đà Phật bên ngoài, ngài nghĩ rằng:
- Ủa, khuya rồi mà còn có thầy nào tới gõ cửa vậy kìa? (Thường thì giờ này ai nấy cũng đều đã yên giấc hết rồi).
Ngài ngồi dậy đi ra mở cửa.
Và ngài thấy bên ngoài có 2 vị tăng mặc hậu vàng, sắc diện thanh tú đoan nghiêm, đang đứng chấp tay cúi chào. Hai vị này thấy lạ chớ không phải là tăng chúng của Phật học viện (Huệ Nghiêm).
Ngài hỏi:
- Hai vị là ai, từ đâu lại và gõ cửa tôi có việc chi chăng?
Một vị lớn tuổi hơn đáp:
- Tuân Giáo chỉ tôn sư, đến đây cung thỉnh Thượng Tọa.
Ngài hỏi:
- Tôn sư của nhị vị là ai, và mời tôi có việc gì?
Cả hai đều đáp:
- Tôn sư của chúng tôi cũng là tôn sư của ngài, xin đến đó sẽ tự biết.
Cố Hòa thượng nghe nói vậy thì gật đầu, mặc hậu, đắp y vào rồi đi theo hai vị tăng ấy. Thấy mình cùng với hai vị tăng kia bay trên mây, vượt qua nhiều rừng, núi, sông hồ, sau cùng bay lướt lên trên một sườn núi cao và hạ xuống trên sơn đỉnh.
Đất nơi đây rộng rãi, bằng phẳng, màu xanh như cẩm thạch, cây cối thẳng hàng, hoa cảnh xinh tươi. Chính giữa đỉnh núi là một ngôi đại tự hùng vĩ, uy nghiêm, mái cong, ngói đỏ … kiến trúc mỹ lệ phi thường mà từ trước đến nay chưa từng trông thấy.
Hai vị tăng nói:
- Phận sự của chúng tôi đến đây là hết. Xin thỉnh ngài vào trong đại điện sẽ gặp tôn sư.
Nói xong chắp tay bái chào rồi đi mất.
Hòa thượng chỉnh lại y hậu đoạn bước vào trong đại điện. Các sự trang trí, bày biện nơi đây thảy đều cực kỳ siêu đẳng, tuyệt vời, rực rỡ không sao tả xiết: trên có tôn tượng Tây phương tam thánh cao vọi, xinh đẹp tuyệt trần đứng trong vị thế tiếp dẫn, dưới đến là thánh tượng của Đức Chuẩn Đề Đại Sĩ đầy đủ ngàn tay, ngàn mắt, oai vũ tuyệt luân, trang nghiêm đẹp lạ.
Ngài liền quỳ xuống cung kính đảnh lễ. Đâu đó xong xuôi hết rồi ngài mới nghĩ rằng:
- Sao vẫn không thấy Hòa thượng tôn sư trụ trì?
Đang khi có ý tìm kiếm bỗng nghe tiếng gọi:
- Thiền Tâm chớ tìm đâu xa, ta ở nơi đây.
Ngài ngó lại và nhận thấy là tiếng gọi ấy phát ra từ nơi thánh tượng của Đức Chuẩn Đề Đại Sĩ. Tuy lấy làm lạ nhưng ngài cũng đến quỳ xuống đảnh lễ và chắp tay chiêm ngưỡng thánh tượng.
Ngài thấy thánh tượng ấy như sau:
- Tượng thì là tượng Chuẩn Đề Đại $ĩ.
- Ngàn tay, ngàn mắt là của Đức Thiên Thủ, Thiên nhãn Đại bi Quán Thế Âm Bồ Tát.
- Bụng thì lại là bụng của đức Di lặc bồ tát (bụng bự).
Trong khi ngài còn đang suy nghĩ vì thấy lạ, thì nghe từ trong tượng vang ra tiếng nói:
- Thiền Tâm chớ lấy làm lạ. Ta đây chính là tôn sư của người. Sở dĩ ta hiện ngàn tay, ngàn mắt là vì ngươi trì chú Đại bi và Chuẩn đề đã được chút ít thành tựu [Gần trọn đời của Hòa thượng (từ khi mới tu cho đến bây giờ) ngài chuyên niệm Phật và trì chú. Đặc biệt là chú Đại bi và chú Chuẩn đề. Mỗi lần lễ Phật thì ngài trì niệm 108 biến chú Đại bi, một muôn câu chú Chuẩn đề và 100.000 câu niệm Phật ngài có soạn ra một pháp thức tu tên là: “Chuẩn đề, Đại bi, pháp nghi hợp thức” cho các đệ tử chuyên tu Mật tông hành trì.]. Còn ngươi thấy bụng ta lớn như bụng của ngài Di lặc là vì Ta từ bi, thương xót tất cả chúng sanh, hằng luôn mang mểnh để ở nơi lòng cho nên bụng mới lớn ra như vậy.
Cố Hòa thượng mới thưa rằng:
- Con nay được gặp Thánh tượng Tây phương Giáo chủ và Bồ tát rồi thì lòng nguyện con đã thỏa mãn và rất vui mừng. Xin ngài dạy con phải về nơi nào để nhập thất, ẩn tu hầu sớm được về bên Phật.
Bồ tát bảo:
- Ngươi hãy ra cửa, sẽ có người trao thư. Chỗ trụ xứ sau cùng của ngươi có ghi rõ trong đó.
Vậy hãy đi mau cho kịp thời giờ.
Ngài tuân lời, cúi lạy một lần nữa đoạn đi thụt lùi ra cửa. Sau khi ra đến ngoài sân rồi thì ngài nhìn ngó trước sau (trong ý tìm người đưa thư) và rảo bước vòng quanh để xem phong cảnh.
Đang khi đi ngài chợt nghe phía sau lưng mình có tiếng gọi:
- Thiền Tâm đang kiếm ta phải không?
Ngài quay đầu ngó lại thấy đó là Hòa thượng Bổn sư THÍCH PHẬT ẤN năm xưa, nên lật đật quỳ xuống đảnh lễ. Hòa thượng đỡ dậy bảo:
- Ta mừng cho ngươi đạo quả gần thành. Tuy nhiên cũng còn sót lại một ít nghiệp nhỏ phải chịu nữa, hãy cố gắng vượt qua thì sẽ được “đắc kỳ sở nguyện”.
Đoạn lấy trong mình ra một phong thư, bảo:
- Đây là phần đời còn lại của ngươi. Chỗ trụ xứ tương lai và kỳ hạn vãng sanh thảy đều có ghi đủ ở trong đó. Để ta cho người đưa ngươi về.
Ngài quỳ xuống lạy và tiếp lấy thư, vừa cúi lễ xong, ngước đầu nhìn lên thì thấy mình đã về đến nơi tịnh thất (ở Huệ Nghiêm) từ lúc nào rồi, trên tay vẫn còn cầm lấy phong thư màu trắng với mùi hương lạ vẫn còn thoang thoảng bay ra.
Ngài mở bao thơ ra xem, bên trong có một tờ giấy vàng, ghi bài “kệ” sau đây:
“SÁU TÁM lắm gian nan,
Nhơn quả chớ than van.
Thấy NINH thời ĐẠI đến,
Gặp PHÚ ắt bình AN.
LIÊN HƯƠNG thơm sực nức,
Còn chút nghiệp phải mang.
Ngọt chua hai bốn chẳn,
THÂN xuất đáo LIÊN BANG”.
Đang khi ngài cầm bài thơ và suy nghĩ thì tiếng chuông trống (của thời công phú Lăng Nghiêm sáng từ nơi chánh điện) vang lên. Khiến cho ngài giật mình tỉnh giấc, vẫn còn ngửi được mùi hương lạ từ nơi thân thể thoang thoảng bay ra một hồi lâu mới hết.
Ngài vội ngồi vào bàn viết, lấy giấy bút ra biên lại bài kệ (trên) để suy tìm nghĩa lý. (và ghi lưu hậu luôn cả giấc mộng này).
(Đến đây, Bảo Đăng con xin tạm dừng bút lại và đầu thành đảnh lễ Tôn sư Thượng THIỀN hạ TÂM, Đại lão Hòa thượng chi Giác linh, thùy từ chứng giám cho con được chú giải lại ý nghĩa của bài kệ này).
(Phần chú giải sau đây đã được ĐĐ. Bổn sư THÍCH HẢI QUANG hướng dẫn – qua lời chú giải của cố Hòa thượng đã dẫn dắt cho thầy trước kia, khi thầy còn hầu cận bên chú ruột của mình nơi Phương Liên Tịnh xứ vào trước năm 1978).
Câu thứ nhất:
SÁU TÁM lắm gian nan
Chữ SÁU TÁM đây có ba ý nghĩa:
1. Sáu tám là sáu mươi tám tuổi (Hòa thượng thọ được 68 tuổi đời).
2. Sáu tám là 6 x 8 = 48 (Hòa thượng được 48 hạ lạp).
3. Sáu tám là năm 1968 khi cố Hòa thượng bắt đầu lìa Sàigòn để về Đại Ninh.
Toàn câu này ý nói:
- Cố Hòa thượng thọ được 68 tuổi đời (1925-1992) và 48 tuổi đạo. Trong suốt thời gian này, và bắt đầu từ năm 1968 trở đi, cuộc đời của ngài phải chịu nhiều nỗi gian nan, vất vả (nơi chốn hồng trần. Vả lại vì chỉ sống có một thân, một mình nơi rừng núi (Đại Ninh) cho nên phải bị gian nan, cực khổ).
Câu thứ hai:
Nhơn quả chớ than van.
Là ý nói các việc buồn, vui, sướng, khổ v.v... tóm lại là cuộc đời của cố Hòa thượng sở dĩ bị nhiều nổi trân chuyên vất vả, như vậy là do nơi nhơn quả của ngài gây tạo ra trong tiền kiếp, hãy nhẫn chịu chớ đừng có than van, trách hờn chi cả cho dù có bị lấy oán trả ơn, hay là gì gì đi chăng nữa.
Câu thứ ba:
Thấy NINH thời ĐẠI đến,
Trong câu này có hai chữ ĐẠI NINH (tức là tên nơi trụ xứ của cố Hòa thượng) và lại cũng có ý nói rằng:
Hễ ngài về đến ĐẠI NINH rồi thì cái THỜI đại (thành tựu việc tu hành) của ngài sẽ ĐẾN – quả vậy, ĐẠI NINH chính là trụ xứ sau cùng của ngài, ở nơi đây ngài tiến tu – hoằng đạo (khai nguyên ra hệ phái “Mật Tịnh Đại Ninh” cho các môn đồ, pháp quyến tu tập lưu truyền cho đến mãi mãi về sau), và được vãng sanh, giải thoát.
Câu thứ tư:
Gặp PHÚ ắt bình AN.
Trong câu này có hai chữ PHÚ AN (tức là thôn Phú An), tên của nơi mà ngài sẽ về đến để nương, ẩn, tu hành.
Câu này có ý nói rằng:
- Hễ gặp Phú An rồi thì cứ trụ ở đấy, tất sẽ được an ổn. Quả thật vậy, kể từ khi ngài về tại ấp Phú An(Đại Ninh) ẩn tu rồi thì (sau đó) gặp không biết bao nhiêu cảnh sóng gió, não phiền. Như là bị vu báng, mạ lỵ, hủy phá (trong tờ di chúc của ngài có nói đủ) v.v…
Trung ương thành ủy Phật giáo thành phố v.v…), nhiều lúc rất nguy ngập tưởng chừng như sắp sửa bị bắt cóc hoặc bị ám sát tới nơi rồi, nhưng vào giờ phút chót ngài đều được tai qua nạn khỏi hết, đúng như câu: Gặp PHÚ ắt bình AN. ở trên vậy.
Câu thứ năm:
LIÊN HƯƠNG thơm sực nức
Trong câu này có hai chữ Liên Hương, đây là tên của hai đạo tràng do ngài kiến lập ra là:
+ Hương Nghiêm Tịnh viện (tức là chữ Hương)
+ Phương Liên Tịnh xứ (tức là chữ Liên)
Lại nữa chữ Liên Hương cũng còn có thêm 2 nghĩa khác nữa là:
- Mùi thơm của bông sen (Ám chỉ cho danh tiếng của ngài là một tôn sư hoằng dương môn Tịnh độ lừng lẫy nhất của Phật giáo Việt Nam).
- Tượng trưng cho pháp môn Tịnh độ (Liên là bông sen – Tịnh độ tông) mà ngài đã cố công hoằng hóa trọn cả đời tu tập của mình.
Câu này có ý nghĩa như sau:
- Khi về trụ tại nơi đây (Phú An và Đại Ninh) thì ngài thành lập ra hai đạo tràng: Hương Nghiêm Tịnh viện và Phương Liên Tịnh xứ để hoằng dương tông Tịnh độ, thanh danh của Hòa thượng tôn sư Thích Thiền Tâm, tông chủ của hệ phái “Mật Tông – Tịnh Độ Đại Ninh” bay xa và lừng lẫy khắp nơi, mọi người ai nấy cũng đều nghe biết, kính trọng đúng với ý nghĩa câu: Liên Hương thơm sực nức.
Câu thứ sáu:
Còn chút nghiệp phải mang.
Câu này có ý nói:
- Tuy mang danh là tông chủ của hệ phái “Mật Tông – Tịnh Độ Đại Ninh” mà danh tiếng (được hầu hết các Phật tử và mọi người trong nước tôn xưng là Phật sống, thánh tăng, hiền tăng v.v…) lẫy lừng khắp nơi trong quốc hội và ngoài quốc ngoại như vậy, nhưng ngài cũng còn có chút nghiệp phải mang:
Vậy là nghiệp gì?
Theo lời ĐĐ. Bổn sư kể lại như sau:
- Sau năm Ất Mão 1975 rồi, có dạo cố Hòa thượng nói với hai đệ tử thân cận là: Ni sư Thích nữ Thanh Nguyệt (trưởng tử), cháu ruột kiêm đệ tử là ĐĐ. Bổn sư thích Hải Quang như sau:
- Cách đây gần một năm, thầy có mơ thấy Đức Quán Âm báo mộng và cho biết rằng thầy bị nghiệp ở tù, do kiếp trước ưa nuôi nhốt chim lồng, cá chậu nên kiếp này phải chịu trả quả trước khi vãng sanh.
Nếu muốn tránh nạn này thì thầy phải tự giam mình trong thất mới qua khỏi được (Bằng không sẽ bị chánh quyền mới nhốt).
Sau đó ngài tuyên bố bế quan Ẩn tu kín (tức là nhật thất, ẩn tu luôn, không bước ra ngoài và cũng không tiếp xúc với bất cứ một ai hết – coi như là bị ở tù vậy), vô thời hạn (từ tháng 5/1975 dl cho mãi đến lúc thị tịch, vãng sanh vào ngày 14/12/1992 dl  trước sau gồm có hơn 17 năm từ ở (trong thất).Chẳng những như thế mà (sau này khi ĐĐ. Bổn sư xuất ngoại rồi) ngài còn cho bọc thêm ba lớp vòng rào kẽm gai chung quanh thất của ngài nữa.
(Đây thiệt rõ ràng là một cái “nhà tù” giam người, bên ngoài có hàng rào kẽm gai bao bọc).
Sở dĩ ngài làm như thế là vì ngài muốn giải trừ cái nghiệp bị ở tù của mình (vậy mà vẫn còn bị nhiều phen bầm dập). Ngài có nói với cháu là ĐĐ. Bổn sư thích Hải Quang rằng: Còn chút nghiệp (ở tù)phải mang của cố Hòa thượng vậy.
Câu thứ bảy:
Ngọt chua hai bốn chẳn,
Ngọt, chua đây là ý nói nếm đủ mùi vị của đời, khen (ngọt), chê (chua) – nói tốt (ngọt), nói xấu (chua)– kính trọng (ngọt) – hủy phá (chua) v.v...
Hai bốn chẳn – Hai chữ “hai bốn” đây là “24 năm chẵn chòi” còn lại của đời ngài.
(Ngài chánh thức về ẩn tu tại Đại Ninh vào năm 1968  thị tịch vãng sanh vào tháng 11 Âl năm 1992 Trước sau có tất cả là 24 năm mà ngài trụ ở thôn Phú An, Đại Ninh này).
Trong vòng 24 năm đó, cuộc đời của ngài đã chịu không biết bao nhiêu cảnh “ba chìm, bảy nổi, tám chín linh đinh” kể sao cho xiết! (Cũng do mấy người tăng ni, đệ tử, sanh ghét trước danh tiếng quá lẫy lừng của ngài, nên tìm đủ mọi cách phá hoại, hủy nhục hầu dìm ngài xuống, để cho họ được nổi lên. Các việc này trong di chúc ngài cũng có nói đến  sẽ được đọc đến nguyên văn di chúc của ngài, đăng ở phần sau).
Đây là chư Phật, Bồ tát đã dạy cho ngài biết trước để mà lập tâm nhẫn nhục (sau này). Và cũng chính nhờ vì biết được như vậy, cho nên mặc dù bị quá nhiều “NGỌT – CHUA” suốt 24 năm trời như thế mà tâm ngài vẫn không vui mừng, hân hạnh hay buồn khổ, tức tối chi hết.
Thiệt là rất đáng phục thay cho cái đức “Nhẫn nhục” cao cả của ngài.
Câu thứ tám:
THÂN xuất đáo LIÊN BANG.
Chữ THÂN trong câu kệ này hàm hai ý nghĩa:
1. THÂN đây là tư thân của ngài.
2. THÂN đây cùng còn có thêm nghĩa khác nữa là năm THÂN (ngài tịch vào năm NHÂM THÂN (năm con khỉ). Và đây chính là ý nghĩa của chữ “THÂN XUẤT” vậy).
Câu kệ này có ý tiên tri cho ngài biết là:
a) Sau khi ngài bỏ THÂN tứ đại (thân xuất) này rồi thì sẽ đáo thẳng về Tây Phương Cực Lạc (Liên bang tức là cõi bông sen) của đức từ phụ A Di Đà.
b) Năm NHÂM THÂN (1992) thì thần thức của ngài sẽ xuất ra khỏi thân giã huyễn (viên tịch) và rời nước Việt Nam của miền Nam Thiện bộ châu thuộc cõi Ta bà này, sanh thẳng về Cực lạc (Liên bang)– nơi mà ngay từ khi mới khởi lên bảy tuổi ngài đã được thọ ký là sẽ sanh về.
Và quả thật như vậy.
Ngài vãng sanh vào lúc 6 giờ 15 phút sáng ngày 21-11 Âl năm Nhâm Thân (14/12 dl – 1992) – thần thức xuất ra khỏi THÂN tứ đại giả hợp ngay trên bàn tọa tại tịnh thất Phương liên và đáo thẳng về nơi Cực lạc đúng với câu:
THÂN xuất đáo LIÊN BANG.
Cuối cùng trong bài kệ mà Tây Phương Tam Thánh và Đức Chuẩn Đề Bồ tát đã trao cho ngài trước kia ở núi thánh điện vậy.
Đến đây, một lần nữa, kính bạch cố Hòa Thượng tôn sư, đệ tử là đồ tôn Bảo Đăng và tất cả các môn đồ, pháp quyến chúng con, một lòng đảnh lễ:
Nam mô Hoằng dương môn Tịnh độ, Đại Ninh, Liên Tông khai sơn tổ sư, Phương Liên Mật Tịnh đạo tràng – VÔ NHẤT ĐẠI SỰ – THÍCH THIỀN TÂM Hòa Thượng – tác đại chứng minh (Tam xưng tam bái).
Trở lại việc chuẩn bị xin từ chức, ẩn tu của cố Hòa thượng.
Hơn một tuần lễ sau từ hôm nhận được bài kệ ở nơi cố Hòa thượng bổn sư PHẬT ẤN trước sân của thánh điện trong giấc mơ rồi. Ngài thường xuyên xem xét bài kệ đó để suy tìm ý nghĩa ẩn tàng bên trong. Một hôm nọ, sau thời khóa trì niệm, ngài cảm thấy tâm thể mình rất thanh tịnh và các bí nghĩa của bài kệ mà gần nửa tháng qua ngài vẫn chưa thấu triệt được bỗng nhiên hiện ra rất rõ ràng (như vừa giải thích ở trên). Khiến cho ngài như người ngủ mê chợt tỉnh:
- Ngài thấy rõ rằng mình phải sẽ đi đến một địa phương mới có tên là ĐẠI NINH hoặc PHÚ AN gì đó … để ẩn tu và hoằng dương về môn Tịnh độ. Ở tại nơi này mình cũng có được chút ít tiếng tăm tốt và cũng sẽ phải chịu trả một ít nghiệp quả tiền khiên trong suốt 24 năm dài và cuối cùng, đến năm mình 68 tuổi sẽ được vãng sanh về Cực lạc quốc.
Ngài thấy và biết được cái ý nghĩa ẩn tàng bên trong bài kệ như vậy.
Nhưng sau đó rồi ngài lại băn khoăn khi nghĩ đến việc:
- Đại Ninh ở đâu?
- Phú An ở chốn nào?
Các địa phương này thuộc về miền Nam, miền Đông hay miền Trung. Đất nước rộng lớn, bao la như vậy ta làm sao biết được địa điểm để mà tìm?
Đoạn ngài nghĩ tiếp:
Nhưng mà cũng không sao, nếu như chư Phật, Bồ tát muốn cho ta về trụ ở nơi đó thì thế nào cũng xui khiến có người đến chỉ chỗ cho ta. Chỉ sớm hay muộn mà thôi, điều quan trọng là ta đã biết “NÓ” tên là gì rồi, thì “NÓ” chạy đâu cho khỏi được. Rồi ngài lại an tâm trong công việc và các thời khóa tu tập thường nhật của mình.
Bốn tháng sau – Vào tháng 10 dl 1967.

Hôm đó nhằm ngày chúa nhật, khoảng hơn 10 giờ sáng, có một người tục gia đệ tử của ngài quê ở Bến Tre (trong ban trị sự của chùa Phật Quang) về Sài Gòn và đến Huệ Nghiêm thăm thầy (tức là cố Hòa thượng). Đạo hữu này pháp danh là Minh Thiện, thế danh tên là Tr.K.T., trước kia làm nghề buôn bán cá từ Biển Hồ (Cao Miên) về miền lục tỉnh – có một dạo đó, đạo hữu này vừa mua sỉ xong một số cá tươi rất lớn mới vừa được lưới từ Biển Hồ lên, đang sửa soạn cho người để xuống ghe chài để chở đi bán lại cho các vựa cá. Lúc ấy đâu khoảng gần 11 giờ trưa, đạo hữu này đang ngồi tại bàn viết tính toán tiền bạc, sổ sách, … thì chợt thấy buồn ngủ quá, không sao gượng được nên gục đầu xuống mặt bàn thiếp đi.
Vừa mới nhắm mắt chưa đầy một phút đồng hồ thì đạo hữu Minh Thiện mơ thấy như sau:
- Từ bên ngoài cửa, có hơn 20 người, đủ cả nam, nữ, già trẻ và con nít, đầu đồng đội mũ đỏ, mình mặc cũng đồng một thứ áo màu xanh có điểm chấm vàng, thần sắc và dung mạo đều tiều tụy, ốm yếu xanh xao, dường như bị mang bịnh nặng nên bước không muốn vững, người này phải nương tựa nơi người kia mà đi. Tất cả các người đó đều bước vào trong văn phòng làm việc, quỳ xuống trước mặt Đạo hữu Minh Thiện lạy mà thưa rằng:
- Chúng tôi toàn thể gia đình trên 20 sanh mạng, hôm nay rủi đi lầm đường nên bị bắt cả. Thân sẽ bị chết trong giây lát đây thôi. Chỉ có ông là người duy nhất cứu được chúng tôi, xin ông mở lòng rộng lượng, ơn ấy kiếp kiếp không quên.
Đạo hữu Minh Thiện mới hỏi:
- Mấy người là ai, ở đâu, bị nạn gì mà nhờ tôi cứu, tôi làm sao có được khả năng để cứu cho quý vị.
Mấy người ấy lạy mà thưa rằng:
- Xin ông ra phía trước, chỗ các nhân công của ông đang làm việc thì sẽ thấy chúng tôi ở đó. Chúng tôi đồng mặc áo xanh điểm chấm vàng và trên đầu cũng đồng đội mũ nhọn màu đỏ như hiện giờ. Nhờ ông mở lòng từ bi cứu độ cho. Sở dĩ chúng tôi dám mạo muội cầu ông cứu giúp bởi vì được biết ông là đệ tử của một bậc nhục thân Bồ tát thời nay là Đại Đức THIỀN TÂM, ngài ấy có lòng từ bi rất lớn, ông là đệ tử của người xin nguyện nương theo đức cả mà thương tình cứu tử cho cha con, chồng vợ chúng tôi để được sống thêm tu niệm cho thoát nghiệp trong kiếp lai sanh.
Đạo hữu Minh Thiện mới hỏi:
- Được rồi, thôi ra đi ta sẽ cứu cho (hứa đại chớ cũng không biết họ là ai). Mấy người kia lạy tạ ơn rồi dìu nhau ra cửa đi mất. Minh Thiện giật mình thức dậy, trán đổ mồ hôi, tim đập mạnh, lòng bắt đầu hồi hộp không an, liền chạy ra ngoài cửa, nhắm theo hướng mấy người ban nảy bước đi mà nom theo, thấy các người làm công đang đổ cá từ trong lưới xuống ghe, chài, lòng bỗng nhiên động tâm, suy nghĩ:
- Có khi mấy người ban nãy là các thần ở dưới biển hồ này, lội đi chơi bị dính lưới chăng? Chắc có lẽ như vậy nên mới lạy mình và nói chỉ riêng mình là có đủ khả năng cứu được họ mà thôi, hơn nữa sao họ lại còn biết được tên sư phụ của mình kìa? Do vì nghĩ như thế nên Minh Thiện vội bước tới chỗ đổ cá để xem thì thấy có một mẻ lưới vừa đổ xuống một đống cá tươi, trong đó có hơn 20 con cá, lớn thì bằng một đứa con nít 2, 3 tuổi, nhỏ cũng bằng bắp vế, da của tất cả các con cá này đều cùng một màu xanh biếc, điểm chấm vàng như hột bắp, trên đầu có một vết màu đỏ tươi lớn bằng bàn tay nằm vắt ngang, mới xem qua dường như đội mũ (đỏ) vậy.
Các con cá này ngáp ngáp gần như muốn chết, mắt nhìn Minh Thiện trân trân như đang cầu cứu. Vừa thấy mấy con cá này xong, Minh Thiện sợ muốn bay hồn, cả mình mọc ốc, biết hơn 20 người cha con, chồng vợ mà mình gặp trong mơ ban nãy chính là đây rồi, liền ra lệnh bắt lên thả xuống nước hết.
Tối đến nằm ngủ, mơ thấy một lần nữa hơn 20 người đó đến lạy và tạ ơn cứu mạng.
Từ đó Minh Thiện bỏ luôn việc buôn bán cá và chuyển sang nghề khác. Và cũng kể từ dạo đó, đạo hữu Minh Thiện này mới biết thầy mình là một bậc Bồ tát thời nay, nên càng thêm kính trọng bội phần.
Hôm nay nhơn dịp có chút việc về Sài Gòn, nhớ đến thầy nên ghé qua chùa Huệ Nghiêm để viếng thăm, đảnh lễ,...
Trong khi trò chuyện, cố Hòa thượng có hỏi:
- Lúc này còn làm nghề cũ không “Sao lâu quá không gặp?”
Minh Thiện thưa rằng:
- Bạch Thượng Tọa, mấy năm nay vợ chồng con đã đổi việc làm ăn rồi nên không còn làm nghề cũ nữa. Chúng con cũng đã dời nhà đi nơi khác, xa xôi quá nên ít được dịp về thăm thầy mặc dù lòng con lúc nào cũng luôn tưởng nhớ.
Cố Hòa thượng hỏi:
- Làm nghề gì và dọn nhà đi đâu?
- Bạch Thầy, làm nghề buôn bán rau cải Đà Lạt và dọn nhà ra ngoài đó ở mấy năm rồi.
- Ở tại chợ Đà Lạt phải không, nghe nói khí hậu nơi đó mát và tốt lành cho sức khỏe lắm.
- Bạch Thượng Tọa không, cách Đà Lạt khoảng 40 cây số, nơi con ở là một ấp nhỏ, cũng tương đối yên ổn và thanh tịnh.
Cố Hòa thượng hỏi?
- Chỗ đó tên gọi là chi?
Minh Thiện đáp:
- Bạch Thượng Tọa, nơi con ở tên là Đại Ninh.
Cố Hòa thượng giật mình, liền hỏi tiếp:
- Đại Ninh có phải là Phú An không?
- Dạ, bạch Thượng Tọa phải rồi, Đại Ninh là tên của vùng, còn tên của thôn, nhà con đang ở nằm tại thôn Phú An. Bạch Thượng Tọa, bộ thầy cũng biết nơi này nữa sao? (Trúng mánh, vô cơ rồi)
Hòa thượng mỉm cười (chắc có lẽ lúc đó trong tâm của ngài vui và cảm ơn trời, Phật lắm) nói:


Cũng biết chút đỉnh.
(Đây là duyên khởi để cho Cố Hòa Thượng biết rõ nơi “Tân trụ xứ” của mình …)
- Và bây giờ, ngài đã biết được Đại Ninh cùng Phú An nằm ở nơi nào trên bản đồ Việt Nam rồi. (Đúng như ngài đã nghĩ là Phật, Bồ Tát sẽ khiến có người tới mách giúp, chỉ chỗ cho mình)
(Sau đó, những việc như hỏi kỹ địa điểm, đường đi nước bước, đến xem cuộc đất v.v… Là lẽ đương nhiên cần phái tiến hành – xin miễn đề cập tới cho đỡ dài dòng và tinh giảm hơi sức)

Cuối tháng 12/1967, ngài đến Viện Hóa Đạo nơi chùa Ấn Quang, đảnh lễ sư phụ là Hòa Thượng Hội chủ THÍCH THIỆN HÒA (Phó Tăng Thống) trình bày các lý do sau đây:
- Chánh trị đã xâm nhập vào Phật Học Viện (do mấy thầy lớn mang vào).
- Chư học Tăng không tuân theo giáo quy của nhà trường.
- Mấy thầy đồng song (bạn cùng tu) bất chấp sự thanh tịnh cần phải có của Phật Học Viện, thường xuyên tới lui, vận động phe phái chánh trị, sách động biểu tình v.v…
- Và như vậy là không thích hợp với sở nguyện (chuyên tu) của mình.
- Ơn Thầy Tổ, Giáo hội và đàn na tín thí cũng đáp đền xong. Nay đã đến lúc cần phải lo phần tịnh tu giải thoát... cùng một số lý do khác (như sức khỏe yếu kém v.v…).
Xin được từ chức Đốc giáo Phật Học Viện Huệ Nghiêm, giao trách nhiệm lại cho đệ I phụ tá là Thượng tọa THÍCH BỬU HUỆ thay thế.
Ban đầu, Hòa Thượng Hội chủ không chấp nhận, nhưng cuối cùng, đối đế quá không biết làm sao hơn nên buộc lòng phải chịu để cho ngài từ chức với điều kiện là phải từ từ chớ không được gấp quá Hòa Thượng dạy:
- Ta chấp nhận cho con từ chức ẩn tu theo sở nguyện nhưng chưa liền bây giờ mà phải chờ qua đến năm 1968 mới được đi.
Vì muốn cho sư phụ vui lòng nên ngài mới hoãn lại việc ra đi của mình và bàn giao từ từ lại cho TT. Bửu Huệ. Mãi cho đến giữa năm 1968 mới hoàn tất được hết mọi chuyện.
Trong thời gian này, thỉnh thoảng thì ngài cũng có đi đi, về về giữa Sàigòn (Huệ Nghiêm) và Đại Ninh, xúc tiến việc mua đất và mướn người Thượng(*) phát quang cây cối chung quanh vùng cho trống trải để chuẩn bị cất tịnh thất ẩn tu.
Ghi chú:
(*) Vì vùng đất mà cố Hòa thượng chọn để ẩn tu nằm cách quốc lộ khoảng 3 cây số, cạnh sông Đại Ninh của đập thủy điện Đa Nhim, nơi đây rất ít có người Kinh (Việt) ở lắm, đa số là dân sắc tộc thiểu số cư ngụ (95% cư dân nơi đây là người Thượng).
Những lúc ngài bận đi vắng như thế thì tịnh thất của ngài tại Phật Học viện Huệ Nghiêm giao cho một học tăng thị giả trông coi, (tịnh thất chỉ là một am nhỏ, lợp bằng lá dừa nước, đơn sơ và đạm bạc) quét dọn xem sóc mỗi ngày.
Có một vài chuyện cũng rất lạ lùng (và huyền bí) ở nơi tịnh thất của ngài như sau: (Thuật lại theo lời kể của một số học tăng tại Huệ Nghiêm).
- Nguyên lần đó, sau khi quét dọn bên trong tịnh thất của ngài xong rồi thì vị học tăng ấy cảm thấy hơi mệt mỏi nên khởi ra ý nghĩ là muốn tìm chỗ (đâu đó) để ngồi dựa lưng cho thoải mái và “giãn gân cốt”. Trong khi đi ngang qua bàn viết của ngài, thầy ấy tò mò nhìn vào thì thấy trên bàn đang để dở một quyển kinh (bằng chữ Nho) cùng với xấp bản thảo kinh mà ngài đang phiên dịch nên đứng lại xem (cho biết).
Thấy hay hay, và lại vì cũng đang mệt và muốn tìm chỗ ngồi để dựa lưng một chút, thôi thì sẵn có bureau và ghế đây, ta hãy cứ (tạm làm thượng tọa), ngồi vào khỏe và xem kinh luôn cho nó được “nhứt cử lưỡng tiện” (còn hơn là đứng hoài mỏi chân lắm!) Chắc có lẽ vì nghĩ như vậy nên thầy mới “vui vẻ”, khỏe khoắn “bình tọa” ngay trên ghế “thượng tọa” và cầm lấy xấp bản thảo kinh đang dịch lên xem. Nhưng vừa mới ngồi xuống xong chưa đầy một phút đồng hồ sau thì thầy bỗng chợt có cảm giác dường như chóng mặt, nên cố gắng định thần lại, thì thấy mơ hồ có một bóng người cao lớn đi đến đứng bên cạnh bàn viết, lấy tay chỉ vào người này nói với giọng giận dữ:
- Người hãy đứng lên cho mau, sao dám ngồi nơi bảo tọa của Đại Đức Pháp Sư – đoạn lấy tay xô một cái, khiến vị học tăng này té nhào xuống đất, làm cho thầy sợ quá, vội vã ngồi dậy và chạy ra ngoài.
Đây là một chuyện.
Và thêm một lần nữa, đêm đó vị học tăng khác có trách nhiệm trông nom tịnh thất của ngài, bỗng nhiên khởi lên ý nghĩ là tối nay sẽ ngủ lại trong thất của cố Hòa thượng (có lẽ thầy này cũng muốn thử xem ta có đủ “đạo lực” để nằm trên giường ngủ của “ông già” hay không. Bạn ta hôm trước mới vừa ngồi vào ghế của “ổng” thì bị xô té xuống, còn ta thì đêm nay sẽ nằm ngủ ở trên giường của “ổng” để thử xem có chuyện gì xảy ra không cho biết. Nếu mà có “cái gì đó” xảy ra cho ta thì ta sẽ phục “ông già” tu cao, còn nếu như mà ta vẫn thẳng cẳng ngủ khò một giấc cho đến sáng hôm sau thì té ra là bạn ta “nói xạo”).
Chắc có lẽ vì nghĩ như thế nên tối hôm đó thầy này không trở về phòng của mình mà lại leo lên trên giường của “ông già”, định bụng là sẽ “đánh một giấc” thẳng thừng cho khỏe. Nào dè đâu vừa nằm xuống, mới nhắm mắt thiu thiu thì thầy bỗng mơ màng thấy có một người đi đến đứng bên cạnh đầu giường, nhìn thấy một lúc rồi tỏ sắc giận mà bảo:
- Người là ai, sao dám cả gan nằm ngủ nơi đây. Hãy dậy và đi xuống ngay lập tức. Nói xong thì vị này đi ra ngoài phía bàn dịch kinh (Hộ pháp). Thầy này lúc đó phần thì buồn ngủ nên làm biếng dậy, phần thì nghĩ rằng: ta dây cũng “đường đường tăng tướng”, Đại Đức như ai vậy, ta không sợ đâu, cứ nằm lỳ ở đây thử xem đó làm gì được ta cho biết (kể ra thì thầy này cũng can trường dữ).
Đoạn thầy nằm xuống luôn chớ không chịu đi xuống theo như lời bảo khi nãy. Khoảng chừng 5 –10 phút sau, thầy thấy có 5, 6 người khác nữa đi đến, đứng nơi đầu nằm, vị đứng giữa hình như là cấp chỉ huy, mặc áo vàng, gương mặt oai vũ và có vẻ giận dữ nói:
- Đã bảo rồi mà ngươi vẫn còn chưa chịu xuống hay sao? Nói xong lấy tay khoác một cái làm cho thầy này có cảm giác bị lạnh buốt phía sau lưng, một sức lạnh thấu xương xuyên qua da thịt, tựa như có bàn tay khổng lồ bằng nước đá bợ lưng của thầy lên cao và hất xuống đất, khiến thầy bị rét run, lập cập nói không ra tiếng, la ú ớ một hồi rồi ngồi bật dậy, vội vã chạy ra khỏi phòng, mặt mày tái mét lên vì sợ.
Hai câu chuyện này được kể ra làm cho các học tăng trong Phật Học Viện (thời đó) ai cũng đều lắc đầu, le lưỡi mà nói rằng: “Ông già” của mình tu cao ác (ôn) đến nỗi chỗ ngồi và chỗ nằm của ổng mà cũng có “long thần, hộ pháp” coi giữ nữa.
XA CHỐN THỊ THÀNH VỀ A LAN NHÃ
(Rời thành phố về nơi ẩn tu)
Khoảng giữa năm 1968, việc xây cất Hương Quang tịnh thất ở Phú An đã xong, ngài chánh thức dâng đơn từ chức lên Viện Hóa Đạo, mặc dầu rất thương tiếc cho một người đệ tử vừa có tài, vừa có đức, tuổi còn nhỏ mà đã sớm ẩn tu (năm đó ngài được 43 tuổi) nhưng biết rằng không thể nào lưu giữ con người đại tâm, đại bi, đại nguyện này lại được cả, bất đắc dĩ Hòa thượng Hội Chủ kiêm Phó Tăng Thống và Viện Trưởng Viện Hóa Đạo Ấn Quang THÍCH THIỆN HÒA bắt buộc phải chấp đơn để cho ngài được thành toàn chí nguyện (mà trong lòng buồn lắm).
Chức vụ Đốc giáo Phật học viện Huệ Nghiêm được bàn giao lại cho Thượng Tọa đệ nhất phụ tá là Thượng Tọa Thích Bửu Huệ, và riêng về phần ngài, thêm một lần nữa (và cũng là lần cuối cùng) lên đường nhập thất ẩn tu vô thời hạn nơi vùng rừng núi cao nguyên của miền Trung nước Việt:
- Tổng Đại Ninh, thôn Phú An, xã Phú Hội, quận Đức Trọng, tỉnh Lâm Đồng (Đà Lạt). Một địa danh hoàn toàn xa lạ đối với tất cả chư Tăng, Ni, Phật tử nơi chốn thị thành.
(Đến đây Bảo Đăng tôi xin tạm dừng bút đôi phút để bình luận về việc này, một việc có thể gọi là “phi thường” mà xem như 100% chư Tăng đương thời không một ai dám nghĩ đến  huống chi là thực hành!
- Ngay như cố Hòa thượng đây là một đại tăng, tuổi đời còn nhỏ (43) tài cao, đức trọng có danh chức và địa vị lớn trong giáo hội, làm Đốc giáo một Phật học viện nổi danh, Phật tử đông nhiều, ai nấy cũng đều cung kính, quý trọng … ấy vậy mà ngài vẫn không đoái tưởng đến, vứt bỏ hết tất cả chẳng chút luyến lưu, một thân, một bóng bơ vơ về ẩn tu nơi miền rừng xa, núi vắng, giữ đời sống đạm bạc, an vui, tuyệt dấu thị thành.
Nếu không phải là một bậc đại căn, đại lực, hỏi mấy ai dám “cả gan” đương nổi việc này.)
Trong Kinh “Đại Bảo Tích chương Pháp Hội Phú Lâu Na, phẩm Bồ Tát hanh”, Phật có dạy rằng:... Lại này Phú Lâu Na, Đại Bồ tát có thể rời lìa ngũ dục, thường thích xuất gia, tâm thuận xuất gia, xu hướng xuất gia, chẳng ham ngũ dục. Khi được xuất gia rồi thì rời bỏ chốn ồn náo, ở xa nơi núi rừng, chẳng mất pháp lành. Bồ tát hay thành tựu được Pháp này thì sẽ được đầy đủ tất cả công đức.
Đức Thế Tôn muốn sáng tỏ lại nghĩa này mà nói kệ rằng:
Tâm thường thích xuất gia,
Mà hay thường xuất gia.
Ưa thích ở núi rừng,
Chỗ tăng ích công đức.
Ở tại chỗ rảnh vắng, (1)
Thì lìa ngũ dục lạc,
Nơi ấy không ồn náo,
Không mất duyên pháp lành.
Không phải bận chuyện trò,
Đến, lui, thăm viếng nhau.
Ưa rảnh rang, vắng vẻ,
Được chư phật ngợi khen.
Vì thế chư Bồ Tát.
Phải thường ở rảnh vắng.
Chớ tham ưa thành thị,
Chỗ sanh tâm lợi dưỡng.
Nếu được lợi thì mừng,
Khi mất sanh lo buồn.
Người này dầu cúng Phật,
Chẳng gọi là cúng dường.
Muốn trừ các lỗi này,
Phải thường lìa lợi dưỡng.
Nương thân nơi lan nhã,
Tu tập các pháp không …
(Vô Nhất Đại sư - Cố Hòa Thượng Đại Ninh, Thích Thiền Tâm, chính là hạng người mà Phật đã đề cập cùng nhắn nhủ đến trong phần kinh này vậy).
Ghi chú:
(1) Nơi rảnh vắng: tức là rảnh rang và vắng vẻ, còn có một tên khác nữa là A Lan Nhã.
Sau ngày Cố Hòa Thượng rời khỏi Huệ Nghiêm về ẩn tu nơi miền sơn cước Đại Ninh rồi, thì những Phật tử trước kia đã từng quen biết với ngài tại Sài Gòn và khắp cả các nơi, thảy đều mang lòng nhớ thương, hoài vọng. Riêng các hàng tứ chúng có tâm chân thật tu hành ai nấy cũng đều ngầm tiếc nuối cho một bậc đạo cao, đức trọng, đã dũng mãnh xả hết tất cả lợi danh, chùa to, Phật lớn cùng với các vinh dự hiện có của mình trong giáo hội mà quy ẩn quá sớm nơi miền đồng núi xa xôi, cam phần đạm bạc đúng theo như chí nguyện của kẻ xuất trần.
Và mọi người (Phật tử chơn chánh) cũng đều biết thêm rằng:
- Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống Nhứt đã bị mất đi một vị đại Tăng lỗi lạc, tài đức song toàn, thật tu, thật hạnh (Trong khi các vị Tăng sĩ giả tu, hoặc “mượn đạo tạo đời”, hoặc đắm mê danh lợi, hoặc nương nơi hình thức Phật giáo để làm chánh trị, mưu cầu quyền chức cá nhân, hoặc tiếp tay cho những người đối nghịch, quấy rối, xách động biểu tình, làm đảo loạn sự trị an trong nước v.v… thì vẫn còn nhan nhãn khắp nơi trong Giáo hội với các chức vụ này, kia quan trọng … mà lắc đầu, ngán ngẩm cho cả hai phương diện: Thế thái lẫn nhơn tình!
(Dạo ấy có người làm thơ than thở, nhớ tiếc cố Hòa Thượng rất nhiều, nhưng vì đã gần 30 năm trôi qua rồi nên hầu hết đều bị thất lạc. Trong hai lần về lại Việt Nam để truy tìm thêm tài liệu của cố Hòa Thượng cho quyển sách này, Bảo Đăng tôi chỉ góp nhặt được một ít đoạn thơ sau đây, nay cũng xin biên lên để mà “thêm nhớ thương” cho một vị Đại sư đã được nhiều cảm mến nhất của hầu hết Phật tử...
Chẳng hạn như:
Con chim cánh trắng bay về núi (1)
Bỏ chốn tương tranh lắm não phiền,
Xa lìa nhân thế đảo điên,
Lánh nơi tục lụy, đáo miền thần tiên...
Ghi chú:
(1) Chim cánh trắng là chim bồ câu: Đây là một loại chim được cả thế giới gọi là “chim hòa bình”. Riêng trong các bài thơ này có ý ám chỉ cho Hòa thượng là người hiền lành, không ưa tranh đấu.
Hoặc là:
Cánh trắng chim kia khuất dạng rồi,
Quân tử đau lòng khóc hởi ôi!
Trách bấy nhân tình sao đảo loạn,
(Biết đến thuở nao trùng hợp lại).
Hối nhiều cho mấy cũng đành thôi!
Và như sau đây:
Chim cánh trắng bay nhanh,
Về Đại Ninh núi xanh.
Một mình không bạn lữ,
An ẩn chốn am tranh.
Ngoảnh đầu trông ngùi ngậm,
Thương xót bạn đồng hành.
Tài danh cùng chức vị,
Mê đắm chạy vòng quanh.
Kể từ đó về sau, “con chim cánh trắng “THÍCH THIỀN TÂM” đã “cắt đứt dây chuông” rồi, (Mặc cho chú Điệp đứng bên ngoài cổng kêu khản tiếng) phần của ngài nay đã an nơi miền lan nhã, chỉ tội nghiệp cho những người còn lại, cưu lòng đắm lợi tham danh, lao nhao nơi chốn hí trường, như ý của đoạn thơ sau:
Mắt nhìn xem đã rõ, …
Lòng cắt mối tơ vương,
Mặc kẻ lao nhao chốn hí trường.
Ta lều tranh, núi biếc,
Trong bổn phận lo lường,
Nay tùy duyên thong thả,
Mai rửa bát đốt hương, (1)
Đem tâm quy hướng cõi thanh lương.
Mênh mang kìa biển nghiệp,
Đau khổ biết bao dường!
Quay đầu trông lại thấy thêm thương!
(Người bạn sen)
Ghi chú:
(1) Rửa bát: tức là rửa chén (dơ thành sạch) – ở đây dụ cái bát dơ cho cái tâm (dơ bẩn) của mình. Nên ở trong đạo Phật, nói rửa bát đây thì phải hiểu là rửa cái tâm của mình (cho nó sạch đi đặng hạp với tâm của Phật, Bồ tát, Tổ sư …)
(Đến đây, trước khi qua một chương mới, Bảo Đăng tôi xin lưu ý quý độc giả một điểm rất quan trọng về thời gian rời Sài Gòn của Cố Hòa Thượng để về Đại Ninh ẩn tu như sau:
- Đó là một sự trùng hợp ngẫu nhiên (nhưng đã có tiền định rồi) giữa các sự việc:
1. Ngài muốn rời Sài Gòn vào cuối năm 1967, nhưng ân sư của ngài là Hòa Thượng THIỆN HÒA chỉ cho phép ngài đi vào năm 1968 mà thôi.
2. Trong bài kệ tiên tri về cuộc đời của ngài do đức Chuẩn đề Bồ tát và bổn sư Phật Ấn trao cho có câu mở đầu rằng: Sáu tám lắm gian nan.
Là ý nói đến năm 1968 ngài mới bắt đầu rời Huệ Nghiêm (Sài Gòn) để ra Đại Ninh được.
3. Việc xây cất Hương Quang tịnh thất mãi cho đến năm 1968 mới xong.
4. Đến năm 1968 ngài mới được chấp đơn cho từ chức để ẩn tu.
Như thế thì ta thấy rằng:bốn, năm cái 1968 xảo hợp lẫn nhau như vậy đều là do tiền định cả. Dù ngài có muốn cải đổi hay rút ngắn thời gian lại cho sớm hơn (1967) cũng không được nữa.
PHẦN V: ĐẠI NINH, PHÚ AN
TỊNH ĐỘ ĐẠO TRÀNG
LIÊN TÔNG KHAI SƠN TỔ SƯ
(Vô Nhất Đại Sư, THÍCH THIỀN TÂM Hòa Thượng)
A. HƯƠNG QUANG TỊNH THẤT (Phú An  Đại Ninh)
Phú An là một thôn nhỏ, nằm trong Tổng Đại Ninh, thuộc xã Phú Hội, huyện Đức Trọng, tỉnh Lâm Đồng(Tuyên Đức, Đà Lạt). Dân số nơi đây (vào thời đó (1968) chỉ có chừng 50 nóc gia mà trong đó khoảng 10 nhà là người Kinh (tức là người Việt của mình số nóc gia còn lại là của người THƯỢNG (dân tộc thiểu số).
Đa số nhà người Kinh thì ở gần bên quốc lộ Đà Lạt, Sài Gòn (tức là quốc lộ 20), còn nhà (sàn) của người Thượng thì nằm sâu vào trong rừng, cách quốc lộ khoảng chừng 3, 4 cây số. Thôn này nằm trên bờ sông Đại Ninh (Còn gọi là sông Đa Nhim vì ở thượng nguồn của con sông này trên Đà Lạt – có xây dựng đập thủy điện cao thế Đa Nhim), chiều ngang của con sông rộng chừng 300 thước, chảy từ hướng Tây (của ấp) qua hướng Nam Đông Nam của vùng Đại Ninh với một dòng nước ngọt, êm đềm, hiền hòa và mang nhiều chất phù sa mầu mỡ đã làm cho đất đai của vùng này (từ lâu) trở nên vô cùng phong phú …
“Hương Quang tịnh thất” là nơi của cố Hòa Thượng Thích Thiền Tâm ẩn tu không nằm sát ngoài quốc lộ như đa số nhà của các người kinh khác trong thôn mà lại là nằm sâu bên trong, sát với khu vực của người Thượng ở, cho nên muốn vào đến chỗ trụ xứ của ngài thì phải (đi bộ) một khoảng đường rất xa mất gần cả giờ đồng hồ mới tới, ngay bên cạnh bờ sông Đại Ninh, ngôi nhà của người kinh ở gần chỗ ngài nhất cũng cách xa cả cây số (đó là nhà của đạo hữu Minh Thiện TkT).
Sách có câu: “Cọp về núi, chim về rừng”, thì người tu hành cũng phải về nơi lan nhã (Như Bồ tát Tất đạt Đa khi xưa cũng ở lan nhã tu tập suốt 6 năm dài, sau đó mới thành Phật được) Cố Hòa thượng của chúng ta đây cũng thế. Hương Quang tịnh thất là một căn thất nhỏ, lợp ngói đỏ, lớn bằng một căn nhà hai phòng ngủ (theo tiêu chuẩn Việt Nam) có hai tầng, tầng dưới để ở và làm việc (dịch kinh), tầng trên thì để thờ Phật và lễ sám.
Kể từ khi ngài về trụ tại nơi đây, ngày đêm chăm lo trì niệm, quán tưởng không bê trễ, việc hộ thất thì đã có gia đình đệ tử là Minh Thiện TkT ở gần bên đó đảm trách (trong giai đoạn đầu), đồ ăn nấu một lần thì ăn được cả tuần lễ hay hơn nữa, thí dụ như tàu hủ kho mặn, nấm rơm kho tiêu, mì căn kho xả, ớt v.v... để vào trong ve keo hoặc lon sữa Guigoz, cứ mỗi lần ăn cơm thì mở nắp lấy ra một ít. Ngày nào cũng vậy(nhưng thỉnh thoảng thì đệ tử thương tình nên cũng có mang vào cho một ít canh rau.).
Ngoài các giờ trì niệm thì ngài làm vườn như dọn dẹp, phát cỏ, đốn cây mọc quanh thất (vì là miền rừng núi nên cây cỏ rậm rạp, muỗi, vắt cũng nhiều, nếu như không phát quang thì dễ bị bệnh sốt rét vì muỗi cắn lắm. Theo lời cố Hòa thượng kể lại cho cháu là ĐĐ. Bổn sư Thích Hải Quang nghe thì mỗi chiều, khi mặt trời sắp lặn là muỗi mòng bay ra đầy rừng, phải dùng khói un lên cho nó bay bớt đi nơi khác, còn việc trì niệm thì phải giăng một cái mùng ở trước bàn Phật rồi ngồi vào trong đó mà lễ bái chớ không thì bị muỗi đốt, ngứa quá gải hoài, làm sao được nhứt tâm! Ấy vậy mà vẫn còn nghe nó bay vo vo bên ngoài nữa (ghê thiệt, chắc Bảo Đăng và quý vị không ở nổi đâu).
Mỗi lần ra ngoài làm vườn, trồng cây (ăn trái) chung quanh thất như mít, xoài v.v... thì ngài phải thay đồ tu ra, mặc vào áo quần ka ki (của lính) mà ngài gởi mua từ trên chợ Tùng Nghĩa (cách đó khoảng 9  10 cây số) và mang giày bố (cũng của lính) cho nó lâu rách và lâu mòn, mà còn có thể đỡ được gai gốc, cát sỏi của miền rừng núi nữa.
Có khi ngài cầm rựa (một thứ dao đi rừng của người Thượng lưỡi lớn, cán dài) có khi cầm cuốc, cuốc đất. Trông ngài lúc đó như là: đầu đội nón lá (buông) mình mặc áo quần làm vườn bằng vải ka ki cũ kỹ, đứng cuốc đất, trồng cây v.v… ai thấy mà chẳng đau lòng, đứt ruột... Đâu có ai ngờ rằng một bậc đại tăng tài đức song toàn, tiếng tăm lừng lẫy của Giáo hội, Đốc giáo một Phật học viện có hàng trăm Đại Đức tăng sinh, đệ tử, phật tử hàng ngàn, hàng muôn ở khắp nơi trong nước, một bậc thạc sư về Phật học, trí tuệ siêu tuyệt mà lại ở vào trong hoàn cảnh cô tịch và đạm bạc đến thế này. (Trong khi đó thì các vị khác thua kém rất rõ, tài đức chẳng có ra gì, mà lại ở chốn thị thành, chùa to dinh rộng, nắm giữ những chức vụ quan trọng của Phật giáo, và nhận phần cung kính, lễ bái của Phật tử. So sánh về phẩm cách cao thượng cùng với sự thoát trần và “giai KHÔNG” giữa hai đàng thì cố Hòa thượng Thích Thiền Tâm và các vị đó thiệt là cách biệt quá xa, tựa như một người ở đầu non, còn một người ở nơi vực thẳm vậy).
Đây mới thật sự gọi là KHÔNG (không chùa, không đệ tử, không đàn na, không danh, không lợi, không sắc (tưởng), không tài lộc (bần tăng), không cần ai khen, ai chê, v.v… theo như các thói thường tình nhân thế.
Các vị tu hành thuộc đàn hậu tấn sau này nên xem gương của cố Hòa thượng rồi ngó lại tài, đức của mình mà phát lòng tâm quý, cố gắng tịnh tu, cho khỏi uổng danh là: Như lai sứ giả... Cũng khỏi phụ ơn của tính thí, đàn na (một trong tứ ân) đã vì mình mà cung kính cúng dường tứ sự.
Trong kinh Tổ sư có dạy:
- Người tu hành luôn luôn cần phải nghĩ đến “Ân của thí chủ”. Sao gọi là: Vì nghĩ Ân thí chủ?
Nghĩ đến Ân thí chủ là như vầy:
- Kẻ xuất gia hôm nay, đồ mặc thức ăn, đều nhờ tín thí, thuốc men giường chiếu, cũng của đàn na. Người (thí chủ) nhọc sức cấy cày, vẫn còn kém thiếu. Ta ngồi không thọ hưởng, sao nỡ an lòng? kẻ dệt may gian khổ, chẳng kể đêm hôm. Ta y phục dư thừa, há không mến tiếc?
Người nhà lá vách phên, trọn đời bận rộn. Ta nền cao đền rộng, thong thả quanh năm. Đem công sức khó nhọc để cung cấp cho ta sự an nhàn, lòng nào vui được? Lấy tài lợi riêng để giúp cho ta được no đủ, lý có hợp không?
Thế nên tự nghĩ:
- Phải vận lòng bi trí, tu phước huệ trang nghiêm, để đàn tín được phước duyên, chúng sanh nhờ lợi ích. Bằng chẳng vậy, thì chút hột cơm tấc vải, đền đáp có phân. Thân nô dịch súc sanh, nợ nần phải trả (1).
(Liên Tông thập nhứt tổ  Thiệt Hiền đại sư soạn, Vô Nhất Đại sư Thích Thiền Tâm dịch)
Ghi chú:
(1) Ý nói nếu không chơn thật tu hành thì ăn của người tín thí một hột cơm, nhận của đàn na một tấc vải. Kiếp sau cũng phải làm thân ở đợ, hoặc trâu ngựa đáp đền chớ không có sai chạy một phân nào hết.
(Vì thế cho nên hễ phàm là người Sa môn Thích sử thì phải luôn nghĩ đến ơn đàn na thí chủ rồi quán lại phận mình mà cố gắng chuyên tu, như thế cũng chưa đủ nữa, còn phải đem công đức tu hành của mình mà hồi hướng cho tứ ân (trong đó có ơn của đàn việt) mới được gọi là tạm tròn bổn phận. 
Ở nơi Hương Quang tịnh thất này, cố Hòa thượng ngày đêm nhiếp tâm trì niệm tu hành, và lặng lòng quán tưởng, gần như quên bẵng tục trần.
B. CẢM HÀNG DỊ LOẠI (Hàng dị loại cảm phục)
Vùng Phú An này (vào thời gian 1968 tức là hơn 24 năm về trước) đặc biệt là chỗ của cố Hòa thượng tịnh tu, vì là nơi rừng núi, ít có người lai vãng (đông đảo như miền phố chợ) và có lẽ cũng vì ở gần sông, suối nên có rất nhiều loại RẮN khác nhau.
Theo lời ngài kể lại, thì trong gần nửa năm đầu tiên về ẩn tu nơi đây, ngài gặp rất nhiều thứ rắn độc khác nhau, to có, trung bình có, nhỏ có. To thì cỡ bằng cột nhà, trung trung thì bằng bắp vế, nhỏ thì bằng bắp chân, cườm tay trở xuống v.v…
- Có đôi lúc sau khi làm vườn xong rồi, đến khi trở vào thất thì thấy rắn nó quấn đuôi vào trên ngạch cửa, thòng mình xuống, hả miệng, le lưỡi thở khè khè, ban đầu thì ngài cũng có ý sợ, chần chờ không dám bước qua, nhưng rồi nghĩ không lẽ đứng ở ngoài sân hoài hay là dùng cây đập đuổi thì gây thù oán khó lòng (vì rắn nó độc và thù dai lắm) thôi thì cứ niệm Phật mà bước qua đại, rủi có bị nó cắn chết thì mình cũng quy Tây, càng tốt chớ sao! Rồi ngài nhiếp tâm niệm Phật và nghĩ đến phép “từ bi quán” đoạn nhắm mắt lại (cho khỏi thấy ghê người) đi ngang qua cửa, con rắn “đánh đu” mình qua bên này, bên kia chạm vào mặt, vào cổ lạnh ngắt mà ngài cũng cứ làm tỉnh bước đi. Đến khi vào trong thất xong rồi mới mở mắt nhìn lại thì nó cũng vừa buông mình ra, rớt xuống đất nghe một cái đụi rồi bò ra ngoài rừng đi mất. (ghê quá).
- Lại có lần khác, sáng sớm thức dậy (để sửa soạn vào khóa lễ). Vừa bước xuống “đơn” (tức là cái đi văn nhỏ, bề ngang khoảng 8 tấc, bề dài khoảng hai thước rưỡi của người tu) thì ngài có cảm giác như là đạp trúng phải vật gì tròn tròn và mềm mềm, lấy làm lạ ngó xuống thì té ra đó là một con rắn hổ đen thui, to bằng bắp chân đang nằm khoanh một đống ở dưới chân giường!
Ngài nghĩ:
- Cha chả, mình đạp trúng nó một cái mạnh như vậy, chắc nó cắn mình quá. Liền niệm A Di Đà Phật năm bảy câu rồi đứng chết trân tại chỗ chớ không dám nhúc nhích. Còn con rắn kia dù bị ngài đạp trúng mà nó cũng không có phản ứng gì hung hăng hết, y ta từ từ cất đầu lên, nhìn ngài một hồi rồi le cái lưỡi (đỏ lòm ra) khè khè mấy cái đoạn nằm im trở lại (chắc nó đang say ngủ, hay là nó không có ác cảm gì với ngài cũng không chừng).
Lúc đó ngài mới dám bước đi, vừa mở cửa ra vừa niệm Phật mà bảo với “y ta” rằng:
- Thôi sáng rồi, đạo hữu cũng nên về đi để cho thầy còn niệm Phật nữa. Tưởng đâu nói khơi khơi vậy rồi thôi, không dè y ta dường như biết nghe nên y mới từ từ bung mình ra dài cả mấy thước, chầm chậm bò đến cửa một cách êm ái hòa bình, rồi ra ngoài rừng mất dạng.
- Thêm một lần khác nữa, đêm đó ngài niệm Phật và trì chú (Đại bi) đến khuya mới xong, vừa bước chân xuống cầu thang thì đạp phải lên một đống gì đó đen thui, to tướng, ngài biết chắc có lẽ là rắn (quen với mấy người quá xá rồi!) nhưng cũng làm thinh niệm A Di Đà Phật một hồi, đoạn bước đến bàn viết, vặn đèn lên cho tỏ để xem thì thấy một con rắn quá to (không biết làm sao mà nó lọt vào nhà được trong khi cửa nẻo đã đóng kín rồi. Sau này mới biết chúng nó là các loại rắn thần) đang cuộn tròn một đống bên cạnh đôi dép của mình. Nó nhìn ngài, ngài nhìn nó – hai bên làm thinh ngó nhau một chập, ngài vừa hỏi y ta rằng:
- Phải đạo hữu vào đây để nghe kinh, nghe niệm Phật không? Nếu phải thì gật đầu ba cái cho thầy biết đi. Rắn ta liền gật đầu 3 cái.
Cố Hòa thượng biềt rằng đây là loại rắn linh cũng ưa tu niệm chớ không có ý gì muốn làm hại mình, cũng như các lần trước, ngài mở cửa ra bảo thôi đạo hữu hãy về đi và y ta nhìn ngài với ánh mắt hiền lành rồi từ từ bỏ ra ngoài đi mất.
Từ đó trở đi, mỗi lần làm vườn hay tình cờ gặp phải các “người bạn dài thòn, thấy dễ sợ” này thì ngài niệm Phật cho nó nghe một hồi, rồi mạnh đường ai nấy đi, việc ai nấy làm chớ không có xảy ra chuyện gì khác lạ cả.
Biết vùng này có nhiều loại rắn linh mến mộ tu hành như vậy nên ngài mới làm pháp “Du già thí thực”, hồi hướng công đức tu niệm của mình để bố thí đến cho loài rắn và nói rằng (nói khơi khơi một mình nhưng dùng tâm tưởng và tác ý cho loài rắn được nghe):
- Vì khác loài nhau, nên từ nay nếu như quý vị muốn nghe kinh chú và niệm Phật, v.v… để tu theo thì cứ ở ngoài sân chớ đừng có vào trong thất của thầy nữa. Sau vài lần “truyền lịnh” như thế rồi từ đó về sau tuyệt nhiên không còn có một con rắn nào vào trong cốc nữa. Tuy vậy nhưng cũng chưa hết chuyện.
Số là các “y ta” vẫn còn lén lút vào trong thất chớ chẳng phải không đâu, nhưng vào rồi thì ẩn hình (vì là rắn thần nên có phép tàng hình) để không cho ngài thấy, nhưng bởi vì đã từ lâu cố Hòa thượng là người tu hành thanh tịnh nên ngài có một cảm giác rất lạ, khác với người thường, mặc dù không thấy được hình dạng của họ, mà ngài vẫn cảm biết là các “y ta” thỉnh thoảng cũng vẫn còn hiện diện trong thất, nhưng vì từ bi nên cũng không nói gì.
Có đôi khi giữa đêm ngài tình cờ thức giấc, hay trở mình, hoặc co duỗi tay chân, thì mấy “y ta” trốn không kịp, nên bị ngài rờ trúng, hoặc lăn qua đụng nhằm, ban đầu thì ngài cũng giật mình đôi chút vì cảm thấy mình chạm phải hay đạp nhằm vật chi tròn, dài láng và mát mát, tuy không biết chắc thứ gì nhưng trong bụng ngài là rắn rồi nên lấy tay sờ kỹ lại (coi có phải không) thì mấy y ta biến mất (biết bị lộ tẩy rồi nên tẩu vi thượng sách).
Nhiều lần như vậy, và ngài rõ biết một điều chắc chắn là mấy y ta chờ khi nào mình ngủ quên rồi thì tàng hình và lén bò lên giường nằm kế một bên để “dựa hơi Hòa thượng” hầu “ké” vào nơi công đức trì niệm của mình để cho sớm được thành tựu công tu của họ (giống như ăn trộm công đức vậy).
Biết được như thế rồi, ngài không được vui cho lắm. Một buổi tối nọ, sau khi xong phần tu niệm rồi, ngài xuống dưới nhà, ngồi trên ghế bắt ấn và trì chú “Triệu thỉnh” chư thần, trong tâm mật tưởng là không muốn cho các chuyện này tiếp tục xảy ra nữa. Xong pháp sự rồi ngài mới đi ngủ.
Đêm đó ngài mơ thấy như sau:
- Nghe bên ngoài có tiếng gõ cửa và có người nói rằng:
- Bạch Đại Đức, có đệ tử đến thăm và xin được hầu chuyện.
Vía ngài mới ngồi dậy, bước lại mở cửa ra, thì thấy bên ngoài có một vị thần tướng cao chừng 2 thước tây, mình mặc áo lụa xanh, dung sắc hiền hòa nhưng vui vẻ, chắp tay niệm Phật và cúi đầu chào.
Ngài mời vào thất và cùng ngồi trò chuyện, vị ấy tự xưng là sơn thần của vùng này, vì ban tối Đại Đức có triệu nên mới dám đến quấy phiền.
Trong mơ ngài mới tỏ lại chuyện trên và muốn rằng các việc lén lút ăn cắp công đức tu hành như vậy không nên tiếp tục nữa vì mỗi bữa ngài đều có hồi hướng và bố thí cho hết rồi.
Sơn thần đáp:
- Tôi có dẫn đại diện họ tới đây để tạ lỗi cùng Đại Đức. Vậy xin cho phép nó vào.
Ngài đồng ý và vị Sơn thần mới gọi to:
- Đạo hữu vào đi.
Sau khi gọi xong thì thấy từ bên ngoài bò vào một con rắn quá lớn, to như cậy cột nhà, mình rắn, đầu người đến trước mặt ngài cúi đầu tạ lỗi, nói tiếng (người) rằng: - Vì các con cháu quá kính trọng và thương mến ngài nên lỡ lầm làm cho ngài không được vui, phần tôi cũng có lỗi là không giáo huấn kỹ lưỡng. Xin hứa từ nay sẽ không còn tái phạm (các việc) như vậy nữa.
Sau việc này rồi, từ đó trở đi (cho đến mãi về sau này) không còn có một “y ta” nào dám lai vãng vào trong thất của ngài nữa cả.
Và cũng do từ nơi chuyện này nên cố Hòa thượng được biết chắc chắn thêm một điều nữa rằng: Ở miền rừng núi linh thiêng cũng có các cảnh giới bên kia, có chư thần cùng các loài linh vật sống lâu, ưa thích tu niệm. (Để cảm ơn Sơn thần giúp đỡ nên ngài mới cho dựng lên miếu thờ Sơn thần và Thổ địa ở trên sườn đồi và bên cạnh Phương Liên thất – đó là việc sau).
C. KHẨN HOANG
Hơn nữa năm sau đó, nhờ sức tinh tấn và thanh tịnh tu hành nên dần dần ngài phát sanh thêm trí huệ và cảm nhận được nhiều sự thấy biết khác lạ. Đó là việc ngài tiên đoán trước rằng, sau đây một thời gian không lâu, nơi đây sẽ trở thành một vùng đất tu hành và cũng là nơi quy hướng của hàng tứ chúng vân tập về cùng chung tu niệm.
Vả lại trước kia, qua bài kệ của Bồ tát trao cho, trong đó cũng đã có nói rõ ràng. Chẳng qua là duyên Phật định sẵn rồi, thôi thì ta cũng phải tùy thuận vậy chớ biết sao hơn (ẩn tu rồi mà cũng không thoát được các sự phiền nhọc).
Để chuẩn bị cho Đạo tràng trong tương lai nên ngài mới khởi ra ý niệm là khai phá thêm đất hoang chung quanh hầu sau này tứ chúng quy về có nơi an trụ. Vì chỗ ngài ở có lẫn lộn với người Thượng nên ngài mới lân la đến làm quen, những người thiểu số này họ cũng biết nói tiếng kinh và có vẻ văn minh, tử tế (1). Vả lại, từ lâu vì biết ngài là người tu hành (hơn nữa nằm thường trú ở đây nên cũng đã có nhiều lần gặp mặt nhau rồi), do đó mà họ cũng rất thân ái và kính trọng ngài lắm.
Ghi chú:
(1) Người Thượng thuộc vùng Đà Lạt và Ban Mê Thuộc là các sắc tộc thiểu số văn minh, có họ và hiền lành.
Sống đâu quen đó. Dần dần ngài thấy, biết được các người Sơn cước này giỏi dắn và rành nghề khai phá đất đai nên ngài mới ngỏ ý nhờ họ giúp đỡ về việc phát hoang thì họ liền nhận chịu. Cứ mỗi một mẫu đất được dọn sạch sẽ xong thì họ đòi giá biểu là 500 đồng, và ngài đồng ý mướn họ khẩn hoang như vậy, hễ xong được mẫu đất nào rồi thì vẽ địa đồ và trình lên chánh quyền xin hợp thức hóa giấy tờ và cấp bằng khoán đất (Vào thời gian này vì chánh quyền đang phát động chương trình “khẩn hoang lập ấp” cho nên việc hợp thức hóa đất mới khai phá rất dễ dàng).
Với phương cách này ngài được chánh quyền cấp bằng khoán sở hữu chủ đến trên mười mẫu đất (Sau này chư tăng ni về tu thì ngài cấp cho mỗi người vài ba công đất để cất cốc ở và trồng trọt, tự túc cánh sinh).
Nhờ sự phát quang này nên vùng đất hoang vu, cỏ cây rậm rạp, ít người lai vãng trước kia dần dần trở nên sáng sủa và sạch sẽ, rắn rít, muỗi mòng do đó cũng giảm bớt đi rất nhiều.
Ngài lại bắt chước theo cách thức trồng trọt của người Thượng cùng với sự chỉ dẫn thêm từ các người “bạn Sơn cước” mới này mà trồng tỉa các loại thực phẩm như: bắp, đậu, khoai lang, khoai mì (sắn) v.v… chung quanh tịnh thất. Theo lời ngài kể lại cho cháu là ĐĐ. Bổn sư Thích Hải Quang nghe thì ban đầu việc trồng trọt rất gian lao nhưng không thâu hoạch được kết quả bao nhiêu hết bởi vì các thú rừng ra “cướp đoạt” sạch bách!!
- Như trường hợp (có lần) ngài trồng bắp bên cạnh bờ suối, đến khi bắp có trái ăn sắp sửa được rồi thì bị khỉ từ trên các ngọn cây chung quanh xuống hái hết! Các loài khỉ này rất tinh khôn, cứ mỗi con xuống hái bắp như vậy, mỗi tay nó cầm một trái cũng chưa đủ đâu mà nó còn lấy giây khoai lang cột chung quanh bụng (như giây nịt lưng vậy) rồi bẻ bắp giắt vào trong đó cho nên chỉ một con khỉ thôi mà có khi nó hái đến cả 5, 6 trái bắp! (một đàn khỉ có đến mười mấy con, cho nên nó hái ráo tuốt hết) làm cho sư khổ chủ chỉ còn có cách là đứng nhìn và lắc đầu chịu thua luôn. Còn có một lần khác nữa, ngài trồng khoai mì gần bìa rừng thì bị heo ra ủi gốc ăn củ! Hôm đó ngài tảng bộ ra thăm mấy giồng khoai mì thì gặp một con heo rừng thật to (loại heo chảng) đang cắm đầu ủi gốc mì ăn củ, nhai nghe rào rạo, ngài mới la lớn lên, làm bộ hù để cho nó giật mình chạy đi, nhưng gặp thứ heo chằng này thì nó đâu có sợ (lì lắm) vì vậy nên nó cứ đứng tỉnh bơ tiếp tục ăn khoai ngon lành, lại còn thêm 5, 6 trự heo con đồng lõa nữa chớ!
Thấy hù hoài mà nó vẫn không sợ nên ngài lại gần lấy tay đánh vào đít nó mà nó cũng cứ làm tĩnh không đi, (chắc là đang mê ăn) ngài lại lấy hai tay xô lên mông của nó đẩy đi và bảo rằng heo ơi mầy đi đi nghe không bộ định ăn hết khoai mì hổng chừa cho ta củ nào hết sao, thì nó mới chịu đứng lên, kêu ục ịch một hồi rồi 6, 7 mẹ con dắt nhau đi tuốt vô rừng! (May phước là nó không có quay đầu lại “tán”. Bởi vì miệng nó có răng nanh dài cả gang tay (heo chảng mà), nếu nó tán trúng thì bị thương liền). Đại khái là thế. (Sau này khi đất đai chung quanh được dọn dẹp trống trải hết rồi thì khỉ và heo rừng mới không còn ra nữa).
Đến đây ta thấy gì?
Ta thấy thương cố Hòa thượng rất nhiều, ngoài việc lo chơn thật tu hành, quyết tâm cầu giải thoát ra, ngài lại còn là một con người đơn giản và đạm bạc, trọn đời không màng chi đến danh lợi, khen chê. Một mình an ẩn nơi chốn núi rừng, tự tu, tự sống – chẳng những ngài không theo đuổi, tìm cầu, hay mưu tạocho riêng mình cái vẻ hào nháng bên ngoài cho xứng với danh tiếng của một đại tăng, mà trái lại, ngài đã bỏ hẳn lại sau lưng tất cả các sự vinh dự sẵn có của mình.
Cái “phong cách” cao thượng này trong hàng ngũ chư tăng Việt Nam chắc chắn là chẳng có được mấy người – và đây mới thật gọi là TU vậy).
D. KIM XÀ THÁNH GIẢ
Đây là một tiết mục “đặc biệt” nhất trong quyển sách này, kể lại một vài việc trong số (rất nhiều) việc huyền bí của miền sơn cước linh thiêng mà cố Hòa thượng là người “chủ sự” và trực tiếp đương đầu trong suốt thời gian trên 20 năm ẩn cư tại đây tu tập.
Người đọc cần phải hội đủ lòng tin và dùng tâm trân trọng, chớ nên nói rằng: thời buổi khoa học này thì làm gì mà có các sự việc như vậy, hoặc là chừng nào tôi thấy thì tôi mới tin v.v… Bởi vì đây không phải là cảnh giới của mình, không phải là công đức tu của mình, (tức là mình tu chưa đạt đến mức như vậy) thì làm sao thấy được, gặp được hay biết được. Mà nói là “thấy mới tin”.
(Chừng nào mình tu được như người, hành sự, tỷ được như người thì chừng đó mình cũng sẽ thấy, biết, có khi còn cao siêu, lạ lùng hơn nữa kìa).
Kinh dạy:
- Này Thiện nam tử! Tín tâm có hai thứ:
- Một là tin – Hai là cầu.
Người dầu có tin nhưng chẳng thể suy cầu (1) nên gọi là tín tâm chẳng đầy đủ.
- Tín tâm lại có hai thứ: – Một là từ nghe pháp mà sanh lòng tin – Hai là từ tư duy (2) mà sanh lòng tin. Tín tâm của người do nghe pháp mà sanh chớ chẳng phải do tư duy mà sanh nên gọi là tín tâm chẳng đầy đủ.
Ghi chú:
(1) Suy cầu: Suy nghĩ để cầu tìm nghĩa lý chơn thật
(2) Tư duy: Nghĩ xét và suy lường một cách kỹ lưỡng
Tín tâm cũng có thêm hai thứ nữa: – Một là tin có thánh đạo – Hai là tin có người đắc đạo. Người dầu tin có thánh đạo nhưng trọn chẳng tin có người đắc đạo, nên gọi là tín tâm chẳng đầy đủ. Người mà tín tâm chẳng đầy đủ, thì thọ trì cấm giới cũng chẳng đầy đủ.
(Đại Bát Niết bàn kinh – Phẩm Ca Diếp Bồ tát)
Nơi đây, trong phần này, người viết tôi muốn nhấn mạnh vào hai điểm quan trọng:
1. Có rất nhiều người (tại gia lẫn xuất gia) mỗi khi nghe nói ở phương đó có một vị thượng tọa hay hòa thượng nào tu cao, đạt được vài ba sự phi thường (mà họ không bao giờ có được) thì họ hoặc là bỉu môi, hoặc là cười nhạo, chẳng những không tin mà còn nói lời bài bác rằng:
- Ối, đời này mà làm gì có việc đó chớ. Chỉ xạo mà thôi. (Họ chẳng tin có người đắc đạo mặc dù họ là người có đạo và đang tu theo đạo).
2. Có rất nhiều người (tại gia lẫn xuất gia) mỗi khi nghe nói đến việc mộng (của các bậc thanh tịnh và chân thật tu hành, ẩn cư nơi núi rừng xa vắng) thì họ bỉu môi cười nhạo, chẳng những không tin mà còn nói lời bài bác rằng:
- Ối, ở đó mà tin theo các việc mộng mị. Tu không lo mà tối ngày cứ bàn chuyện mộng mơ làm như mê tín. Bảo Đăng tôi đã nhiều lần nghe thấy như vậy (mà lại là ở nơi người xuất gia nữa chớ) nên cũng lấy làm lạ lắm. Đành rằng cái việc mộng mị có khi do tư tưởng thái quá mà sanh ra, các loại này đa phần đều không thật. Nhưng cũng có các loại mộng do tâm thanh tịnh mà cảm thấy được, các loại mộng này hầu hết đều có thiệt và sẽ xảy tới trong tương lai, nhứt định là không sai chạy đâu hết, chỉ tại vì mình tâm bất tịnh nên không thấy biết trước mà thôi.
Xin đơn cử ra vài ba ví dụ:
a. Bên đạo Tiên:
- Có nhiều vị tu tiên, do vì ẩn cư nơi chốn núi rừng thanh tịnh trải qua nhiều năm tháng nên thấy biết được chuyện quá khứ, vị lai – Như Trạng Trình – Nguyễn Bỉnh Khiêm, biết được chuyện 500 năm sau … mà không dám tiết lộ cơ trời nên làm ra sấm ký, nghĩa lý ẩn hiện chẳng rõ ràng, người đời không hiểu thấu, phải đợi khi chuyện xảy ra rồi thì mới rõ được.
- Có nhiều vị tiên khác biết được chuyện vài ngàn năm trước và sau, (các chuyện này có ghi rất nhiều trong sách vở) như Khổng Minh hồi đời Tam quốc thấy được chuyện 2000 năm sau.
b. Bên đạo Phật:
- Đạo Phật ta còn huyền diệu hơn đạo Tiên chẳng biết bao nhiêu lần. Như trong kinh dạy, chỗ sở chứng của các bậc Thanh văn, Duyên giác, Bồ tát, Phật thì con số thời gian mà quý ngài thấy biết về quá khứ, vị lai, thì có thể dùng chữ vô lượng, vô biên, a tăng kỳ tiếp để diễn đạt mà thôi. Như bậc A la hán, sự thấy biết của quý ngài bao gồm 84.000 kiếp về trước và 84.000 kiếp về sau (mỗi kiếp là 16.500.000 năm, theo niên lịch của thế gian). Người Phật tử học Phật (và nhất là các vị xuất gia đều biết như vậy) chớ nên hoài nghi theo kiến chấp thiển cận của riêng mình mà chê, khen, bài bác về việc MỘNG của bậc tu cao có tâm thanh tịnh … mà cho rằng không thật rồi trề nhún, rẻ khinh. Ngay như Đức Thế tôn là bậc đại giác như vậy mà khi còn làm Bồ tát (lúc tu 6 năm khổ hạnh).
- Ngài cũng nằm mộng thấy 5 điềm.
- Vua Trần Nhân Tôn (là ứng thân của Phật Thích Ca Mâu Ni) cũng nằm mộng một lần.
- Ngài A Nan cũng nằm mộng thấy bảy điềm (A Nan thất mộng). Và trong kinh (Đại Bảo Tích), phẩm Pháp hội “Tịnh Cư Thiên Tử”, Đức Thế tôn cũng có dạy về mộng như sau:
- “Này Kim Cang Tồi, (là tên của một vị đại Bồ tát) ông nên lắng nghe, khéo suy nghĩ và nhớ lấy, nay ta sẽ vì ông mà nói: Này Kim Cang Tồi, có một trăm lẻ tám tướng trong chiêm bao được thấy, hành giả cần phải biết. Những gì là một trăm lẻ tám tướng (chiêm bao)”?
Do vì như vậy (và còn nhiều nữa mà không thể nào kể ra cho hết được …) nên chúng ta là những người học Phật chớ nên quan niệm coi thường về các sự tu chứng, huyền bí và chiêm bao – (nhất là của các bậc đại sư tu hành thanh tịnh nơi chốn lan nhã) mà bị người đa văn và có học kinh điển cười rằng: chỗ hiểu biết về giáo lý của mình chưa được thấu đáo!
Sở dĩ Bảo Đăng tôi nói rào đón dài dòng như vậy, là vì trong quyển sách này, trước sau đã có đề cập đến nhiều điềm mộng của cố Hòa thượng, đặc biệt là trong đoạn “Kim Xà thánh giả” này (và trở về sau)ghi lại một vài giấc mộng lạ thường mà những người không ở trong hoàn cảnh ẩn tu, nhập thất, niệm Phật thanh tịnh như ngài (kể cả luôn các vị xuất gia cao hạ nơi thành phố ồn ào chùa to, đình lớn nữa)cũng không thể nào thấu hiểu và cảm thông được cả.
Vậy, thế nào gọi là “Kim Xà thánh giả”?
Trước khi giải thích và đi sâu vào trong chi tiết của chương này, Bảo Đăng tôi xin ghi lại một đoạn sách nói ý tương tự như sau để làm phần dẫn nhập:
- “Khu vực Lô sơn (là nơi trụ xứ của Liên Tông sư tổ Huệ Viễn Đại sư  Tổ thứ nhất trong 13 vị tổ sư của Tông Tịnh độ tại Trung Hoa) có rất nhiều rắn độc, từ trước đã từng làm nguy hại đến tánh mạng của dân cư ở vùng đó. Nhưng kể từ khi có ngôi chùa Đông Lâm thì các loài rắn dữ ấy trở nên hiền lành, ngày lẫn đêm chúng thường vây quanh Đại sư để nghe giảng kinh. Bởi trường hợp này, nên Đại sư được người đương thời tôn hiệu là “Bích Xà Thánh giả” (Mấy điệu sen thanh Huệ Viễn Đại sư).
Nơi thôn Phú An này cũng thế (vào năm 1968 tức là 25 năm về trước) và đặc biệt tại chỗ ẩn tu của cố Hòa thượng, có rất nhiều loại rắn độc khác nhau, đã từng gây sợ hãi cho các cư dân người Thượng trong vùng, và cũng đã từng làm cho cố Hòa thượng của chúng ta phải bị giật mình “tí tí” vào những ngày tháng đầu tiên khi mới về “ghi danh” làm thường trú nhân tại đây (Đã có kể một tí trường hợp trong phần trước của đoạn này rồi).
Kể từ khi cố Hòa thượng về đây ẩn cư tu tập, nhờ ở nơi đạo hạnh và sự tinh cần lễ niệm, trì tụng của ngài nên dần dần cảm hóa được các loài rắn dữ, chúng nó cũng nương theo đại sư tu tập lâu ngày nên cũng được tinh thông (thành rắn thần).
Nơi miền rừng núi cao nguyên này, thường thì có rất nhiều gò mối lớn (đặc biệt của miền sơn cước), ban đầu thì cố Hòa thượng cũng tưởng đó chỉ là sự thông thường thôi, nên không lưu tâm cho mấy. Chính cái thất mà ngài đang ở (Phương Liên thất) cũng nằm trên một gò mối lớn (mà ngài đã nhờ lính công binh ủi bằng).
- Nhưng dần dần sống ở đây lâu, phần do người Thượng kể lại, phần do kinh nghiệm bản thân, nên ngài được biết chắc chắn một điều rằng tất cả gò mối đều là ổ hang của rắn cả, (rắn làm hang trong đó để ăn mối) gò mối càng lớn bao nhiêu thì rắn ở trong đó càng nhiều và càng to tướng bấy nhiêu (sống lâu năm lắm rồi).
Như vừa lược qua, căn tịnh thất của ngài ở được xây cất trên một gò mối lớn (đã được san bằng) vì vậy nên có nghĩa là trên mặt đất thì cố Hòa thượng của chúng ta ở, còn dưới mặt đất là rắn ở (mà ngài không biết). Hay nói một cách khác nữa là cố Hòa thượng đã vô tình “sống chung hòa bình” với cả đống rắn độc mà không hay biết chi hết. Sở dĩ các con rắn này nó không làm hại chi đến ngài là vì cứ mỗi tối, khi ngài niệm Phật, trì chú, hoặc lễ bái, sám hối, tụng kinh v.v... thì các “y ta” nằm im ở dưới nền nhà, hoặc là bò lên mặt đất, rồi ẩn hình nằm tại chỗ để nghe và tu theo. (Đây là lý do vì sao mà khi ngài mới dọn về  như đã có lược qua trong phần trước  là ở dưới chân giường, cầu thang … bỗng nhiên có rắn xuất hiện, con nào con nấy cũng dài đến cả mấy thước, to bằng bắp vế, nằm một đống đen thui trong cốc mà ngài không hiểu vì sao nó lại vào thất được, trong khi ngài đã đóng cửa vào kỹ lưỡng hết rồi).
Nhờ tu theo bằng cách “dựa hơi Hòa thượng” như thế – nhất là một đại Hòa thượng, tôn sư về Mật Tông và Tịnh Độ nữa. Trải qua nhiều tháng, năm nên các “ông dài” này dần dần trở nên linh thông biến hóa được (một năm tu theo cách “dựa hơi Hòa thượng” này bằng cả ngàn năm tự tu một mình). Do vì thầm cảm được cái ơn trọng đại đó, cho nên các “y ta” kính lễ cố Hòa thượng như bậc cha, thầy, còn các “y ta” thì giữ bổn phận của con, cháu hay đệ tử. Vì thế nên từ đó về sau các loài rắn này trở nên hiền hòa, chẳng những nó không làm cho ngài bực bội hay gây thương tổn chi, mà trái lại còn âm thầm theo bảo vệ cho “Sư phụ” nữa.
(Cũng nhờ đức độ của ngài nên mới cảm hóa được hàng dị loại như thế. Chớ nếu láu táu như mình vậy thì nó cắn cho một cái, bảo đảm 100% là “hui nhị tỳ” và “chầu Diêm vương” là cái chắc). Và cũng kể từ đó trở đi, vùng đất hoang vu trước kia dần dần trở thành ra là một “miền linh địa” (đất linh), đêm đêm đều có tiếng niệm Phật, tụng kinh cùng với tiếng mõ, chuông nhặt khoan, trầm bổng... chớ không còn đượm vẻ hoang sơ, tiêu điều như thuở trước.
Hỏi: Có chứng cớ gì cho thấy là các lời vừa nói ở trên đúng sự thật như vậy hay chăng?
- Đương nhiên là phải có chứng cớ đầy đủ, nên cố Hòa thượng mới biết đích xác như vậy, chớ nếu không thì ngài cũng chẳng thể làm sao rõ thấu mấy cái cảnh giới bí ẩn này được cả.
Sau đây là một vài chuyện liên hệ mà khi còn sanh tiền, cố Hòa thượng đã tự thân kể lại (cho ni sư Thanh Nguyệt và cháu là ĐĐ. Bổn sư Thích Hải Quang nghe):
 - Có lần đó, cố Hòa thượng đang ngồi làm cỏ tranh và xới đất bên cạnh một gò mối lớn ở phía sau thất(Phương liên) của ngài, lúc ngài quơ tay ra sau lưng để cầm cuốc thì ngài lấy làm lạ mà nói trong bụng rằng:
- Ủa, sao bữa nay cái cán cuốc có vẻ là lạ và bự quá vậy? Ngài mới quay đầu ngó lại thì té ra là mình đang nắm nhằm cần cổ của một con rắn to bằng bắp chân người lớn, màu đen có sọc vàng, rắn ta vì bị nắm cổ nên hả miệng, le lưỡi ra khè khè năm sáu tiếng (chắc là bị nghẹt cổ) làm cho ngài hết hồn vội vã buông tay ra và bước lùi lại phía sau, niệm Phật cả mấy chục câu mới định thần được. Xong rồi ngài đứng ngó y ta một lúc và nói rằng:
- Ủa, nhà ngươi ở đâu mà ra đây, nằm sau lưng ta hồi nào vậy? Thôi hãy đi đi (ngài lấy tay xua, khởi ý đuổi đi). Rắn ta cũng ngó ngài một hồi, gật đầu mấy cái (giống như xin lỗi) rồi bò ra phía sau gò mối, ngài đứng ngó theo xem nó bò đi đâu cho biết nhưng chờ hoài mà vẫn không thấy tâm hơi gì hết, ngài mới nghĩ:
- Ủa, bộ nó còn nằm gần đây sao mà không thấy bò đi đâu hết vậy kìa?
Đoạn ngài mới đi vòng quanh gò mối, tìm kiếm mấy lần mà cũng không thấy y ta đâu hết, bỗng dưng mà nó biếng dạng mất tiêu như là khói vậy. Tìm hoài mà cũng không thấy có cái miệng hang (rắn) nào hết.
Khuya lại, sau thời khóa trì niệm (gần 4 giờ sáng) ngài đang ngồi trên ghế bên cạnh bàn viết nghỉ mệt, định bụng chút nữa sẽ pha cà phê uống thì nghe bên ngoài có tiếng gõ cửa. Ngài lấy làm lạ, trong bụng nghĩ rằng:
- Ủa, giờ này còn sớm quá mà sao Thượng lại tới gõ cửa vậy kìa? (Bởi vì mỗi buổi sáng mấy người Thượng ưa tới gõ cửa thất của cố Hòa thượng để hỏi việc làm như là cuốc đất, phát cỏ hoang và lên giồng trồng khoai, sắn v.v… Mỗi lần như vậy là ngài ra mở cửa thì mấy người Thượng ấy hỏi rằng. Bữa nay thầy có việc gì cho tụi tôi làm không?
Và nếu như có việc gì cần thì ngài chỉ cho họ làm, xong rồi trả tiền công cho họ). Bữa nay nghe gõ cửa(còn khuya quá) nữa nên ngài cũng nghĩ chắc là người Thượng đến xin việc làm như mọi hôm vậy.
Ngài mới đứng lên, đi ra mở cửa thì thấy: Bên ngoài, trước mắt của ngài là hai người Thượng một nam, một nữ, tuổi chừng 50, dung mạo rất đơn sơ, mặt mũi sần sùi, da dẻ đen đúa, cả hai đều mặc quần áo màu chàm trông cũng rất sơ sài, đầu hơi nhọn, đi chân đất (không có dép, giày gì hết), bàn tay nhám nhúa giống như có vảy, đang chắp tay, cúi đầu chào ngài, miệng niệm Nam mô A Di Đà Phật.
Ngài nghĩ bụng:
- Ủa, hai người Thượng này ở đâu đến mà thấy lạ mặt, mình ở đây cũng đã lâu rồi mà chưa quen với hai vợ chồng này. Coi họ có vẻ nghèo và giống như bị bịnh mới hết! Thôi để ta giúp cho họ việc làm.
- Ủa, mà sao hai người Thượng này lại lễ phép quá, biết chắp tay chào và niệm Phật nữa?
Ngài hỏi:
- Phải hai vị đến xin việc làm hôn?
Hai người ấy đáp:
- Mô Phật, Kính bạch Hòa Thượng không.
- Ủa, vậy chớ có chuyện gì cần không mà gọi cửa tôi sớm quá vậy?
Người đàn ông đáp:
- Bạch Hòa thượng, hai vợ chồng con đến đây để xin lỗi Hòa thượng về chuyện đáng tiếc ban trưa, có đứa cháu nội đã làm cho ngài giật mình. Xin Hòa thượng từ bi tha lỗi và cho vợ chồng con sám hối.
Cố Hòa thượng lấy làm kỳ, trong bụng nghĩ rằng:
- Ủa, chuyện gì mà họ xin lỗi và sám hối kìa, lạ hôn, từ hôm qua đến nay mình có gặp hay thấy đứa nhỏ nào đâu mà họ lại nói như vậy. Nghĩ thế nên ngài mới hỏi:
- Cháu nội của hai vị hả, hồi nào, nó bao nhiêu tuổi? Tôi nhớ suốt cả ngày hôm qua có gặp đứa cháu nào đâu!
Người đàn bà đáp:
- Kính bạch Hòa thượng, cháu trai của con là đứa bé hôm qua mặc áo quần đen có sọc vàng nằm hầu phía sau lưng của ngài lúc ngài làm vườn đó.
Ngài mới hỏi (mà trong bụng cũng chưa nhớ rõ ra là ai, bởi vì đâu có đứa nhỏ nào mặc áo quần đen, sọc vàng theo hầu sau lưng mình suốt ngày hôm qua đâu): - Vậy hả, cháu bé bao nhiêu tuổi?
Người đàn bà đáp:
- Kính bạch Hòa thượng, cháu được 95 tuổi!!!
Cố Hòa thượng của chúng ta giật mình, sảng sốt hỏi tiếp:
- Ủa, cháu nội mà được 95 tuổi thì hai vị đây bao nhiêu tuổi?
Người đàn ông đáp:
- Dạ con được 842 tuổi và vợ của con 760 tuổi!
Đến đây thì Hòa thượng đã rõ biết họ là ai rồi, nên ngài mới hỏi tiếp:
- Hai vị ở đâu tới đây?
Người đàn ông thưa:
- Bạch Hòa thượng, chúng con ở Huỳnh Xà thôn nằm về phía Đông của thôn Phú An này cách nơi đây khoảng 9 cây số, gia đình con có khoảng một ngàn người.
Vừa nói tới đây thì người đàn bà nắm lấy tay của ông chồng dặt dặt mấy cái như ra hiệu đừng nên nói nữa (chắc sợ bị lộ tông tích) làm cho người chồng mới nói đến câu: khoảng một ngàn người... thì làm thinh luôn.
Cố Hòa thượng gật đầu nói:
- Thôi hai vị yên lòng về đi, không sao đâu.
Nghe ngài bảo như vậy thì hai vợ chồng người này đồng chắp tay cúi chào rồi quay lưng đi vòng ra sau thất của ngài. Hòa thượng mới nom theo xem họ đi đâu và làm thế nào cho biết, thì ngài thấy khi họ ra đến phía sau rồi, cả hai người đồng hóa ra hai luồng ánh sáng màu vàng nhạt lớn bằng cườm tay, bay bỗng lên không về hướng Đông đi mất (giống như ông đi, bà xẹt vậy).
Do đó nên ngài biết rằng:
- Đứa bé 95 tuổi mặc áo đen, sọc vàng là con rắn đen có vằn vàng ngày hôm qua đã làm cho mình hết hồn!
- Hai vợ chồng này là rắn chúa (chúa động). Hang ổ chánh của họ nằm về hướng Đông của ấp Phú An, cách đây 9 cây số có tên là “Huỳnh Xà động” (động rắn vàng).
- Chắc có lẽ họ mới biết biến hình nên dung mạo còn thô sơ chớ chưa được đẹp người. Và hơn nữa chắc mỗi đêm họ ít nhiều gì đó cũng có đến đây nghe kinh và tu theo mình nên mới có vẻ kính trọng mình và biết chắp tay niệm Phật như vậy.
Đây là một chuyện. Và khởi đầu cũng do nơi chuyện này cho nên Bảo Đăng tôi (bắt chước theo chuyện của Liên Tông sư tổ, Huệ Viễn Đại sư ở Lô Sơn ngày xưa) mệnh danh cho cố Hòa thượng Tôn sư hiệu là:
“KIM XÀ THÁNH GIẢ”
(Giống như Bích Xà Thánh Giả của Lô sơn Liên Tông sư tổ, Huệ Viễn Đại sư vậy).
Kế tiếp theo đây, Bảo Đăng tôi xin kể hầu cho quý vị nghe thêm một vài chuyện nữa có liên quan đến hai vị “Kim Xà Vương” này và “Kim Xà Thánh giả”, Vô Nhất Đại sư của chúng ta:
- Nguyên gần 10 năm về trước, lúc cố Hòa thượng còn nhập thất ở Bến Tre, ngài có quen với một vị tu sĩ tên là “Ông sư Mỏ Cày”. Sở dĩ gọi là ông sư Mỏ Cày bởi vì vị này tuy có hình tướng một nhà sư Phật giáo, nhưng thật ra là một người đạo sĩ tu tiên luyện điển theo phương pháp xuất hồn, địa danh (tên của vùng đất) nơi ông sư này ở tu tên Mỏ Cày, vì thế nên mọi người và luôn cả cố Hòa thượng nữa cũng gọi tên ông sư Mỏ Cày mà thôi chớ không ai biết được tên thật của ổng là chi hết. Ông sư này rất kính quý cố Hòa thượng qua phong cách và đạo hạnh của ngài, nên thỉnh thoảng cũng có đến viếng thăm và kể lại cho ngài nghe về một vài việc chứng đắc trong đường tu (tiên) của mình, còn cố Hòa thượng thì cũng có chỉ dẫn thêm cho sư một vài pháp tu bổ túc, vì vậy mà sư có một sự mang ơn ở nơi cố Hòa thượng.
Lúc ngài về Sài gòn và làm Đốc giáo ở Phật học viện Huệ Nghiêm rồi thì sư cũng có đến thăm một lần, đến khi cố Hòa thượng lìa Huệ Nghiêm để ẩn tu thì hai đàng biệt nhau. Mãi đến mấy năm sau, sư mới tìm được lên Đại Ninh (trước sau hai lần) để thăm cố Hòa thượng và rồi sư qua đời vào mấy năm sau đó.
Lần đầu tiên sư lên thăm cố Hòa thượng vào năm 1970 (lúc đó thì ngài không còn ở Hương Quang thất nữa, mà đã dời về thất mới là Phương Liên tịnh xứ rồi) và được Hòa thượng cho phép ở lại thất của ngài vài ba hôm để đàm đạo giáo lý và tu tập (Sư thọ giáo Mật Tông từ nơi cố Hòa thượng).
Qua đêm đầu tiên, sáng lại sư có thưa với cố Hòa thượng rằng thất của ngài đang ở tu nằm trên miệng hang của một động rắn “Kim xà” rất lớn và xin Hòa thượng hãy cẩn thận vì đây là các loại rắn thần con nào con nấy cũng sống trên mấy trăm năm hết.
Cố Hòa thượng gật đầu, nói với sư là ngài đã biết việc đó từ lâu rồi (và cũng có kể lại cho sư nghe về vài ba chuyện của các Kim xà này – giống như Bảo Đăng vừa kể cho quý vị nghe vậy), từ đó sư càng thêm kính phục cố Hòa thượng lắm.
Qua ngày kế đó, sư nằm ngủ và xuất hồn ra đi “thăm” xà động này, khi thức dậy sư có thưa cùng ngài như sau:
- Nguyên từ mặt đất của nền thất Phương Liên đi thẳng xuống dưới (lòng đất) sâu 800 thước có một động rắn lớn, trong đây có khoảng 200 “ông dài” đều sống từ hơn 100 cho đến gần 1000 tuổi hết. Động này có đường hầm thông qua 3, 4 động khác nữa. Chúa tể của tất cả các động rắn này là một đôi Xà vương (rắn chúa màu nửa đen, nửa vàng và đều đã được trên một ngàn tuổi rồi. Cặp Xà Vương này hiện đang ở ngay dưới nền thất của cố Hòa thượng cùng với các con cháu, mỗi đêm đều có nghe ngài niệm Phật, trì chú và tu theo cho nên biết biến hóa và đồng thờ cố Hòa thượng làm thầy để nương theo tu tập.
Sư kể tiếp rằng, khi sư xuất hồn ra gặp hai vị Xà Vương động chúa này rồi thì mấy vị đó có nhờ sư về thưa lại với ngài là họ muốn được quy y Tam Bảo để cho được sớm thoát khỏi kiếp rắn, họ cũng nói rằng trước kia họ chỉ có sống lâu thôi chớ không biết phương cách tu hành (vì rắn lột da cho nên sống lâu lắm), cứ ban ngày thì ngó mặt trời, ban đêm thì ngó theo trăng, sao (tu theo phép luyện âm dương nhị khí) nên mặc dù sống hơn cả ngàn năm rồi mà vẫn không sao biến hóa được. Từ khi cố Hòa thượng về ở đây tu, mấy năm trôi qua cũng nhờ nương theo oai lực chú ẩn và câu niệm Phật của Hòa thượng mỗi đêm, cho nên nay đã bắt đầu biến hóa được rồi và thân mình cũng đã đổi từ màu đen ra màu hơi vàng(tức là từ Hắc xà vương chuyển dần qua Kim xà vương). Hiện thời thì hai vị đó đang cùng với các quyến thuộc đều ẩn hình ở tại đây để tu và ngầm bảo vệ cho ngài là bậc đại sư của họ.
Hòa thượng gật đầu và nhờ sư xuất hồn ra chuyển lời lại cho các vị Xà thần này biết là hôm sau Hòa thượng sẽ truyền phép Tam Quy (Quy y Phật, Pháp, Tăng – Tam Bảo) để cho họ được dự vào hàng Phật tử.
Và sư làm theo lời ngài dạy:
Hôm sau, Hòa thượng đắp y, hậu ngồi trên pháp tòa bày sẵn giữa tịnh thất, trì chú và bất ấn Triệu thỉnh, chỉ đích danh 2 vị Xà vương chúa động Huỳnh xà thôn (với sự hiện diện của sư Mỏ Cày) gọi về.
Liền sau đó ngài thấy trước mắt mờ ảo ẩn hiện ra hai vị xà thần bò vào và hiện hình ra hai người một nam, một nữ trong lứa tuổi khoảng ngoài 60, cả hai đều mặc áo ngắn màu vàng luốc, quỳ trước mặt chắp tay cúi đầu phụng mạng.
Hòa thượng mới thuyết Tam quy cho nghe và kế đó là quy y cho họ cùng các quyến thuộc, đốt chú ấn (mà ngài đã vẽ sẵn trên giấy vàng) để pháp thí cùng rải nước cam lồ xoáy tịnh, chú nguyện cho họ sau khi thoát kiếp rắn đều được sanh thiền, y như Phật pháp tu hành.
(Kể từ đây ngoài các đệ tử thuộc về nhơn đạo ra, ngài còn có thêm các đệ tử thuộc về thần đạo và súc đạo nữa – việc làm này những tăng ni (lục lục thường tài) chỉ biết tụng kinh niệm Phật, cầu phước qua ngày, không lòng tin, không tu Mật tông và không có cảm ứng đạo giao với cảnh giới vô hình đều không thể nào hiểu thấu được cả). Ngoài ra cố Hòa thượng cũng còn có quy y cho chư thần địa phương như thổ thần, sơn thần, thọ thần v.v… Các vị này cũng đều đồng nương theo ngài để tu tập hết …
Đến năm 1974, Sư Mỏ Cày có lên thăm cố Hòa thượng một lần nữa và ở cùng với ngài một tuần lễ. Sư có thưa cùng với cố Hòa thượng mấy điều sau:
1. Về tình hình đất nước vào năm tới (1975) sẽ có một sự “đổi đời” rất lớn, vô số người chết. (tức là biến cố tháng 4 năm Ất Mão 1975).
2. Sư có xuất hồn ra gặp lại các xà thần, điều đặc biệt nhất mà sư thưa cùng với cố Hòa thượng là cặp Xà vương Động chúa Huỳnh xà thôn, mấy năm qua nhờ được quy y Tam Bảo và tu theo phép của ngài truyền cho (đốt nghi thức tu để pháp thí) khi trước nên bây giờ đều được biến hóa linh thông, từ nơi Hắc xà vương này đã chuyển ra thân Kim xà vương (Rắn chúa màu vàng) và thường hay biến thành hình sư tăng mặc áo vàng, mỗi đêm đều có đi kinh hành niệm Phật chung quanh thất của Hòa thượng hầu hạ và bảo vệ cho ngài trong tất cả mọi hoàn cảnh (để báo đức tôn sư).
Mấy đêm sau, qua sự trung gian của vị sư Mỏ Cày, ngài mới cho triệu hai vị Chúa động này về. Đêm đó, cố Hòa thượng chiêm bao, thấy như sau:
- Bên ngoài có hai vị, một tăng, một ni đều mặc áo vàng đi theo sư Mỏ Cày vào trong thất quỳ xuống cung kính đảnh lễ. Ngài hỏi là ai và từ đâu đến?
Hai vị ấy thưa:
- Bạch tôn sư chúng đệ tử là động chúa Huỳnh xà thôn, nghe lịnh triệu thỉnh nên về phục mạng.
Hòa thượng truyền cho đứng dậy thì thấy hai vị ấy thân tướng cũng quang minh, thần sắc sáng sủa, nghiêm chỉnh, trên trán mỗi người đều có chữ Vạn màu đỏ, trước ngực mang một xâu chuỗi lóng lánh hào quang.
Ngài hỏi vì sao hai con lại có được các môn pháp bửu này?
Hai vị ấy thưa:
- Bạch tôn sư, chữ Vạn này là nhờ nơi quy y Tam Bảo mà có, còn xâu chuỗi này là do công tu tập mà thành. Bất cứ người nào (ý nói là xà thần) ở gần và tu theo tôn sư 3 năm đều cảm hiện ra được cả. Trong hàng quyến thuộc của con hầu hết đều được chuỗi này. Kể từ khi chúng con có 2 môn bửu bối này (chữ Vạn là một, xâu chuỗi pháp bảo là hai) trên người rồi thì mỗi khi chúng con đi dạo chơi đến nơi nào cũng đều được chư thần ở địa phương đó kính trọng, nhường đường và gọi chúng con là Phật tử.
Hòa thượng gật đầu thuyết pháp cho nghe cùng khuyến nhắc tu hành. Các vị ấy đều lạy tạ ơn và biến mất.
Mấy hôm sau “Sư ông Mỏ Cày” ra về và có thưa với cố Hòa thượng rằng:
- Lần này là lần cuối cùng gặp nhau. Sang năm (1975) sư sẽ dời về vùng núi Thất Sơn ẩn tu và sẽ tịch vào năm 1980, không còn có dịp gặp lại ngài được nữa.
(Còn Hòa thượng thì tịch 18 năm sau. Ngày mở cửa mả của ngài, hai vị Kim xà đệ tử này có đến hiện hình ra là hai con rắn màu vàng rực rỡ bò lại trước đầu mộ của ngài một chốc rồi mới bò vào trong đám cỏ tranh và biến mất, tất cả mọi người hiện diện trong buổi lễ hôm đó đều thấy rõ ràng. Bên Việt Nam chỉ trừ độc nhất một mình ni sư trưởng tử Thanh Nguyệt (và bên Mỹ là Đại đức bổ sư Thích Hải Quang) là biết rõ căn cội của cặp rắn này mà thôi, ngoài ra không một ai hiểu thấu vì sao mà lại có đôi kim xà này xuất hiện đúng vào ngày “mở cửa mả” của cố Hòa thượng – nên đều có ý nghi ngờ. Đây là chuyện sau).
Sau năm 1975, có một vài vị tăng sinh của Phật Học Viện Huệ Nghiêm lên Đại Ninh thăm cố Hòa thượng và ngủ ở ngoài tu viện Hương Nghiêm, nửa đêm thức giấc (đi tiểu) ở phía sau (nhà cầu), sáng dậy nói với mấy thầy nơi tu viện rằng:
- Cha chả, ông già của tụi mình tu hành tinh tấn ác ôn!
Mấy thầy Tu viện hỏi:
- Sao biết là ông già tu hành tinh tấn?
Khách tăng trả lời rằng:
- Hồi hôm này lúc 2 giờ khuya, tôi thức dậy đi tiểu, lúc trở vào, ngó qua bên thất của ông già thấy ổng vẫn còn mặc hậu đi kinh hành ở ngoài lan can trên lầu thất của ổng, nên biết rằng ông già tu hành suốt cả đêm, tụi mình thiệt không bằng (nhưng thật ra thì người mặc áo vàng đi kinh hành chung quanh lầu đó không phải là ngài đâu, mà chính là một trong hai vị Kim xà vương đệ tử hiện hình tăng tướng đi vòng quanh thất để bảo vệ cho “Sư phụ” của mình được an lành nghỉ ngơi và tu niệm).
Đến đây, trước khi qua một chương khác, Bảo Đăng tôi xin kể hầu quý vị thêm một vài chuyện ngắn khác nữa (trong số rất nhiều chuyện mà Bảo Đăng được nghe từ nơi Đại Đức Bổn sư) như sau:
- Một lần khác, quý thầy bên Tu viện (Hương Nghiêm) dọn đất trồng lúa, bắp – nên gom các cỏ tranh, chà, bổi vừa mới làm xong … lại thành một đống lớn để trên gò mối gần đó, đốt bỏ. (Hôm ấy cố Hòa thượng ngó qua, thấy thế ngài mới rầy, bảo là đốt như vậy lỡ chết côn trùng mang tội. Sau này Đại Đức Bổn sư cũng bị ngài rầy hết mấy lần (về việc tương tự như vậy) vì đốt rác ẩu ở trên gò mối).
Khuya lại, sau khóa lễ (gần 1 giờ sáng) ngài chuẩn bị đi ngủ nghe có tiếng khóc ở phía trước cửa. Ban đầu ngài tưởng đâu vì mình sớn sác nên nghe lầm, nhưng khi lắng tai nghe kỹ lại thì rõ ràng là tiếng con nít khóc chớ không sai chạy chút nào hết, ngài mới mở cửa ra đứng bên ngoài nhìn chung quanh để tìm, đêm đó nhờ có trăng tỏ cho nên chỉ một chút sau thì ngài thấy ở dưới gốc mít phía trước thất có một đứa nhỏ đang ngồi khóc và có vẻ đau đớn lắm. Ngài lại gần hỏi con là ai, sao ngồi khóc vậy, lại đây thầy biểu coi, (ghê quá).
Đứa nhỏ đứng dậy bước ra, đó là một em bé trai khoảng 5, 6 tuổi gương mặt cũng dễ coi, mặc áo màu xanh (chắc là rắn lục), lại gần cố Hòa thượngnói con bị phỏng hết cả lưng, đau rát lắm.
Ngài hỏi vì sao mà bị như vậy?
Bé đáp:
- Hồi trưa này con đang nằm ngủ thì bị lửa ở đâu đốt cháy, vì ngủ mê nên không hay, đến khi nóng quá, giật mình thức dậy thì chạy không kịp nên cả lưng bị phỏng hết (lửa của mấy thầy đốt gò mối), xin tôn sư từ bi cứu độ.
Cố Hòa thượng vừa nghe nói vậy thì ngài biết “Bé” này thuộc về giống gì rồi, nên ngài có lòng thương, dẫn nó vào trong cốc, lấy chung nước cúng Phật trên bàn thờ xuống trì chú (A Di Đà Cam lộ Chơn ngôn)vào nước một hồi rồi rải trên lưng của nó, xong ngài mới bảo bé rằng thôi con về đi, không sao đâu mai sẽ lành.
“Bé” lạy tạ ơn, ra khỏi cửa rồi biến mất.
Đêm sau ngài nằm chiêm bao thấy có một người đàn bà chắc là “má mi” dắt nó đến cám ơn, trong mơ thấy nó hết khóc rồi và cười nói vui vẻ.
Một câu chuyện khác:
- Nơi cốc Phương Liên 2 (có hai thất Phương liên, thất 1 là của cố Hòa thượng ở  thất 2 là của ni sư Thanh Nguyệt cất cho thân phụ ở. Còn ni sư thì ở tại thất Bạch Vân), phía sân trước có một gò mối lớn bằng 5, 6 chiếc đệm, trên có tre gai mọc, choán cả một khoảng đất rộng. Đã mấy lần ni sư muốn đốn bỏ, dọn dẹp cho có đất trống để trồng bắp, đậu, nhưng hễ ai vừa tới gần gò mối, định đốn cây, phát cỏ thì đều cảm thấy xây xẩm mặt mày và nhức đầu hết. Riết rồi mấy người Thượng (làm mướn) sợ quá, đứng ngoài xa chắp tay xá xá vào gò mối thôi, chớ không dám đến gần nữa. Họ nói chúng tôi không dám đâu, trong đó có thần thánh ở đừng đụng chạm đến mà chết.
Mấy năm trôi qua rồi mà gò mối cũng không sao phá được. Cuối cùng ni sư mới đem chuyện này trình lên cố Hòa thượng xin giúp đỡ vì rất cần đất trống để trồng trọt hoa màu. Lúc ấy cố Hòa thượngchưa bế quan, nghe vậy nên ngài mới vào xem tự sự. Sau khi làm phép và chú nguyện xong rồi, đêm đó ngài nằm mơ, vía thấy đi vào trong thất Phương Liên 2, lại gần chỗ gò mối, chỉ tay vào trong bụi tre, bảo:
- Vị nào trong đó hãy đi nơi khác ở, để đất trống cho ni sư trồng trọt, sinh sống và tu hành. Nói xong một lát sau thì ngài thấy từ trong gò mối và bụi tre gai có một con rắn màu đỏ, to bằng cây cột nhà (chắc là rắn lục lửa) bò ra ngó ngài một hồi, đoạn gật đầu mấy cái rồi xuống sông đi mất.
Sáng ra ngài nói cho ni sư nghe và bảo rằng gò mối nay đã phá được rồi. Trước sự hiện diện của ngài mấy người Thượng mới dám đến đốn tre và bang bằng gò mối. Bấy giờ mới khám phá ra một việc hi hữu, ấy là…trong gò mối này có một bụi “Đơn quy” rất lớn (là một vị thuốc bắc đặc biệt bổ máu – bồi bổ tổng quát) rất quý báu, củ to bằng bắp tay, bắp chân (mấy trăm năm rồi nên củ mới lớn như vậy) – nhiều đến nỗi đem về phơi cả mấy chiếc đệm mới hết.
Cố Hòa thượng nói với ni sư rằng:
- Hèn chi mà không ai phá được cái gò mối này hết. Té ra trong đó tàng ẩn vị thuốc quý này nên mới có rắn thần canh giữ. Đây cũng là cái duyên của con đó, hãy giữ kỹ mấy củ đơn quy này mà dùng từ từ. Sau này con còn nhờ nó lắm. (Quả thật vậy, nhờ uống đơn quy này mà ni sư từ từ hết bịnh phong thấp và sốt rét rừng  sau phát ra tướng mập mạp, to con và hồng hào tựa như Di Lặc Bồ tát. Đây là lời của một phật tử từ bên Mỹ về thăm ni sư, khi trở qua kể lại cho Bảo Đăng nghe như vậy).
Còn nhiều chuyện lạ lùng kỳ bí khác nữa nhưng vì giới hạn của quyển sách nên Bảo Đăng xin được ngưng lại ở nơi đây để chuẩn bị bước qua một chương kế tiếp.
E. TỨ CHÚNG QUY HƯỚNG VÀ VÂN TẬP
Từ khi ngài rời khỏi Huệ Nghiêm và lìa xa các sự ồn ào của miền phố thị về ẩn cư tu tập ở nơi đây. Tháng lại, ngày qua ngài cảm thấy đã thâu lượm được nhiều kết quả tốt đẹp và tiến bộ hơn trên con đường tu tập của mình, tâm trí thanh tịnh, an vui không còn bận lòng lo nghĩ đến bất cứ chuyện chi nơi chốn phồn hoa, đô hội.
Sau các thời khóa công phu rồi, ngài lo soạn, dịch kinh sách, hoặc đôi khi rỗi rảnh rảo bước kinh hành, ngày xem hoa nở, tối nhìn trăng lên, vui cùng kinh, kệ, mõ chuông và đắm chìm thân, tâm vào trong câu niệm Phật, năm tháng trôi qua, gần như quên hẳn đi tất cả người quen nơi chốn bụi hồng qua ý thơ sau đây:
Trời xanh xanh,
Trăng thanh thanh.
Xa đôi hạt trắng lướt bay nhanh,
Gió nhẹ thổi rung cành.

Trên mặt nước,
Bóng trăng in.
Dịu dàng buông ánh sáng lung linh,
Một niệm dứt bao tình.

Dưới mái tranh,
Giữ đạm thanh.
Chim chiều luyến ổ lượn chung quanh,
Nguyện lòng tìm đến bến vô sanh.
Nương nép bóng cha lành,
Một dạ quyết tu hành.
Hương Quang Thất
Vô Nhất tăng
Thích Thiền Tâm
Chúng ta nhận thấy gì qua bài thơ “tuyệt tác” này của cố Hòa thượng?
- Có thể nói rằng với bài thơ trên đây, ngài đã dung hợp được giữa tâm mình cùng với cảnh vật (tâm, cảnh hợp nhất), một sự phối hợp tuyệt diệu phi thường mà chỉ có ở nơi các bậc chân tăng đã xả được duyên trần, ẩn thân tu hành nơi A lan nhã như ngài mới có được mà thôi, ý thơ thanh thoát, đầy đạo vị cao siêu rất đáng nên bái phục.
Và càng bái phục hơn nữa qua ý thơ kế tiếp đây:
Trăng chiều long lanh khe nước bích,
Gió đưa thoáng động nhánh hoa đào.
Rừng núi xanh xanh cây phủ khắp,
Lòng nương mây bạc vút bay cao.
Liên Du Vô Nhất
Thích Thiền Tâm
Thiệt là không còn có cảnh nào đẹp hơn ở nơi đây nữa, ta hãy mường tượng ra bóng dáng của một tăng nhân, cô thân đơn độc, đứng bên sườn đồi, nhìn xuống ánh trăng chiếu long lanh trên giòng nước xanh(của con sông Đại Ninh) đang lững lờ trôi trong lặng lẽ, và rồi một cơn gió nhẹ thoáng qua làm cho khẽ động nhánh hoa đào, người tăng sĩ với vóc dáng thanh thanh, cao gầy như thân trúc Thích Thiền Tâm đang đứng im một mình trên đồi vắng, phóng mắt nhìn xa ra chốn rừng núi xanh xanh (chớ không có nhìn xem xe hơi, nhà lầu và các cảnh ồn ào nơi đô hội như các bạn đồng hành) và gởi tâm hồn mình vào trong áng bạch vân kia mà bay vút lên không của khung trời xanh bao la cao rộng.
Đây mới thật đúng là cảnh “Cao nhân nơi đầu núi” vậy. (Trước kia Bảo Đăng tôi tình cờ đọc được bài thơ của một vị Thượng tọa rất có tên tuổi tựa đề là: Cao nhân nơi đầu núi – trong khi ngài đang trụ trì ở một ngôi chùa to tại thành phố Sài Gòn! Lúc đó Bảo Đăng tôi phục thầy lắm, nhưng sau này lớn lên, làm Phật sự và có được ít nhiều hiểu biết (nơi đường đạo) rồi thì lại nghĩ rằng”: Thầy ở Sài Gòn không thì làm thế nào mà biết đến cái cảnh “Cao nhân nơi đầu núi” được.
Nay nhân đọc thơ của cố Hòa thượng Liên Du Vô Nhất Đại sư – Thích Thiền Tâm rồi thì Bảo Đăng tôi mới biết rằng: thế nào mới (thiệt là) một“Cao nhân nơi đầu núi” và “Cao nhân nơi thành thị” vậy). Bởi vì phải thiệt có ở tu chốn đầu non, rừng xa núi vắng qua nhiều năm dài, tháng rộng như cố Hòa thượng Thích Thiền Tâm đây thì mới thấu đạt được cái thanh tịnh của thân tâm mình như thế nào, rồi sau đó mới có thể dung hợp được tâm mình vào trong cảnh vật (tức là lý, sự dung hợp – Tâm là lý – Vật là sự)như ý của bài thơ sau:
Thong thả chốn đầu non,
Trăm hoa tợ phấn son.
Đàn trúc nghe réo rắt,
Thông già giọng véo von.
Ráng đỏ vừa trông vầng nhật lặn,
Kế lại nhìn xem bóng nguyệt tròn.
Thanh tịnh tấm lòng không tưởng nghĩ,
Sắc, tài, danh, lợi, cháu cùng con.
Liên Du Vô Nhất
Quả đúng là một vị tôn sư đầy đủ thật tài, thật hạnh, ngôn hành tương ứng chẳng có trái nhau. Xứng đáng với hai chữ “Hiền Tăng” mà được mọi người tôn xưng (cho cố Hòa thượng) trong thời buổi cận đại này.
Qua thi ý thanh cao, thoát tục của các bài thơ trên, ta nhận thấy quả thật thân, tâm của cố Hòa thượngsau những năm tháng dài ẩn tu nơi miền Lan nhã này đã được hoàn toàn thanh tịnh.
Sách có câu rằng:
- “Xem thi văn cũng có thể biết được tánh con người”.
Trường hợp của cố Hòa thượngđây cũng thế. Sự thanh tịnh trong nội tâm ngài đã được bộc lộ ra một cách rõ ràng ở nơi thi tứ, mà nếu ai là người tinh tế và “biết xem thơ” ắt nhiên không sao nén được những tiếng chắc lưỡi khen vùi qua các áng thi văn tuyệt vời và rất ư là “A lan nhã” này vậy.
Hơn một năm dài trôi qua, ngài một thân, một mình an ẩn nơi chốn núi rừng xa vắng, ngày đêm bạn cùng kinh kệ, mõ chuông và mây ngàn, gió núi, gần như quên hẳn đi tất cả người quen nơi chốn bụi hồng.
NHƯNG...
Mặc dù một bậc hiền tăng như ngài lúc nào cũng chỉ muốn yên ẩn tu hành, giữ đời đạm bạc, an vui, trong câu niệm Phật và cực lực dụng công để chờ cho đến ngày 30 tháng chạp của cuộc đời mình rồi nhắm mắt theo Phật về Tây, biệt đường sanh tử... ấy thế mà cũng vẫn không sao tránh được dư nghiệp của mình.
Bởi vì cũng giống như cảnh: Một cái trống to (trống chầu) dù cho có đánh lên từ bên trong một căn nhà đã đóng kính hết các cửa nẻo nhưng âm thanh của nó cũng vẫn vang dội được ra bên ngoài và thấu suốt đến tận nơi xa.
Cá nhân và phong thái của Hòa thượngThích Thiền Tâm ở đây cũng tương tự như vậy. Một bậc chân tăng đầy đủ tài đức như ngài mà muốn cho bặt ăm, bặt tích.
Hơn một năm trời nghe ngóng và cầu tìm như thế trôi qua. Và rồi “tiếng trống đưa tin” của cố Hòa thượng từ miền Sơn cước Đại Ninh đã dần lan xa khắp cả mọi nơi, vang tận đến chốn Sài thành. Hàng Phật tử chơn tu và các môn đồ từ nay đã bắt đầu nghe và biết đến hai chữ ĐẠI NINH là tên của một vùng rừng núi hẻo lánh, xa xôi của miền cao nguyên Đà Lạt, một địa danh mà từ trước đến nay hoàn toàn xa lạ đối với các người dân nơi chốn thị thành, nhưng kể từ đây nó hằng được nhắc nhở và để ý đến nhiều hơn … nhiều hơn nữa, bởi vì ở nơi đó có tàng ẩn tung tích của một bậc thạc đức, chân tu:
- Hòa thượng THÍCH THIỀN TÂM, nguyên đốc giáo của Phật học viện Huệ Nghiêm, mà đại danh của ngài từ lâu đã được các hàng Phật tử xuất gia lẫn tại gia thảy đều mến thương, kính trọng …
Trên quốc lộ 20 Sài Gòn, Đà Lạt, các xe đò đưa khách đi về từ đây cũng đã bắt đầu ngừng lại thường xuyên hơn nơi đầu cầu Đại Ninh để đổ xuống nhiều loạt hành khách khác nhau, đủ mọi thành phần trong xã hội, và thiểu số người Kinh cư ngụ tại địa phương “đèo heo hút gió” này nay cũng dần cảm thấy được bớt đi niềm cô đơn cố hữu của mình qua sự rộn rịp tới lui và hỏi thăm đường sá, từ nơi các người khách mới, như là:
- Xin vui lòng chỉ cho chúng tôi lối nào để vào được đến nơi ở của Thượng Tọa Đại Ninh.
Hoặc là:
- Các bác có biết Thượng tọa Thiền Tâm ở chỗ nào trong ấp này không? V.v...
Càng ngày tin đồn càng lan rộng ra khắp cả các nơi và mọi người Phật tử ai cũng đều biết được rằng Thượng Tọa nguyên đốc giáo của Phật học viện Huệ Nghiêm Thích Thiền Tâm hơn một năm qua, đã một thân, một bóng “hẩm hút phận nghèo” về ẩn tu tại vùng sơn cước Đại Ninh, sống bơ vơ, đơn độc trong hoàn cảnh “tự lực cánh sinh” nơi miền núi rừng, sơn dã.
Các môn đồ Phật tử sau khi nghe, biết được như thế ai cũng đều bùi ngùi, chắc lưỡi, thương cho một bậc chân tu đã can đảm cam chịu cảnh tự dập vùi, xa lánh chốn phồn hoa. Vả lại, cũng đã hơn một năm trôi qua rồi, chẳng những vắng đi bóng ngài, vắng nghe lời dạy đạo, khuyến nhắc tu hành của ngài không thôi đâu mà còn nhìn ra ngoài hoàn cảnh xã hội hiện tại rối ren, rồi ngó lại trong đường đạo nữa, thấy một số lớn quý thầy lãnh đạo mang trọng trách “Như lai sứ giả” trên mình mà hướng dẫn đạo pháp một cách sai lầm, nhuộm pha toàn là màu sắc đấu tranh, chánh trị, phe nhóm hơn thua, giành giựt lợi danh lẫn nhau … mà lắc đầu ngán ngẩm.
Họ đã cảm thấy “thấm thía” mùi đạo, mùi đời rồi. Và bây giờ hơn bao giờ hết, mọi người Phật tử chơn tu lại bắt đầu nhớ đến Thượng Tọa Thích Thiền Tâm, một bậc đạo sư thuần túy, chân chính tu hành đang ẩn tu nơi miền rừng xa, núi vắng. Họ đem ra so sánh và so sánh. Ai nấy cũng đều cảm thấy nhớ nhung đến Hòa thượng thật nhiều.
Từ đây, trên con đường dẫn về vùng sơn cước Đại Ninh, dập dìu bước chân người đi, kẻ đến. Từ chúng ta bắt đầu quy hướng về nơi Thượng Tọa Đại Ninh, quyết lòng tựa nương nơi đức độ của ngài để làm kim chỉ nam trên bước đường tu học, và tìm cầu giải thoát.
Vùng A lan nhã Phú An từ nay không còn được yên ổn như xưa và Thượng Tọa Đại Ninh Thích Thiền Tâm cũng không còn được an thân để tịnh tu như các thời gian qua nữa. Ngài cảm thấy bận rộn và lo lắng thêm nhiều.
PHẦN VI: ĐẠI NINH ĐẠO TRÀNG HƯƠNG NGHIÊM TỊNH VIỆN
Bắt đầu từ tháng 8/1969 đến sau tháng 7/1970, nương theo danh đức của ngài, một số chư Tăng Ni và Phật tử từ từ quy hướng về thôn Phú An là nơi trụ xứ của Thượng Tọa Đại Ninh Thích Thiền Tâm để định cư và tu tập.Vì đã dự biết trước rồi nên ngài cũng không mấy chi ngạc nhiên cho lắm. Đối với chư Tăng Ni mới đến ở, như vị nào đã có đầy đủ phương tiện tự túc rồi thì thôi, còn nếu như có vị nào đến thưa cùng ngài cầu xin giúp đỡ bước đầu thì ngài đều sẵn lòng tùy hỷ và chu cấp đất đai để xây dựng am cốc tu tập, trồng tỉa hoa màu, tự lực cánh sinh (cũng như ngài vậy).
Dần dần khắp mọi nơi trong thôn Phú An chỗ nào cũng có am thất của chư Tăng, ni, Phật tử dựng lên để an cư và tu tập.Vùng đất tiêu sơ ngày nào của hơn một năm trước đây nay đã hoàn toàn đổi thay bộ mặt và trở thành một “làng tu” nổi tiếng trên con đường đi Sài Gòn, Đà Lạt mà mỗi khi nhắc đến ai nấy cũng đều biết danh hết cả, nhất là mấy người tài xế và lơ xe hành khách chạy trên các lộ trình này.
Khoảng tháng 8/1970, vì nhận thấy tứ chúng đã vân tập về đông đảo, để hưng khởi và điều hòa pháp sự trong vùng vả lại vì cũng thể theo lời thỉnh cầu của tất cả nên ngài ra thất và bắt đầu chuẩn bị việc kiến lập một Tu viện để cho đại chúng có được một nơi chánh thức tề tựu về tu học và tụng giới (vào mỗi nửa tháng) cùng cử hành các đại lễ truyền thống trong đạo giáo như Phật đản, Vu lan,...
Ngài chọn một khu đồi cao, rộng và có vị trí tốt trong các phần đất mà ngài đã khẩn hoang trước kia để xây cất tu viện. Hai người bạn đồng song, cố giáo của ngài là Hòa thượng Thích Bửu Lai (Cần Thơ) và Hòa thượng Thích Bửu Huệ (Phật học viện Huệ Nghiêm – Sài gòn) được ngài gởi thư thông báo và thỉnh đến để cùng hợp sức với ngài chú nguyện cùng làm lễ đặt viên đá đầu tiên hầu cho ngôi Tịnh viện tương lai sớm được thành hình, (Trong đạo gọi là “Đức chúng như hải”, tức là muốn hưng khởi lên một Phật sự lớn, hoặc là khi mở nên một đạo tràng thì phải nhờ nơi sức đại lực của chúng tăng), nhất là ở tại một vùng đất linh thiêng vừa mới được khai phá này.
Để cho Phật sự được chóng thành tựu nên trong các khóa lễ hằng đêm ngài đều cầu nguyện chư Hộ pháp gia hộ và khởi tâm tưởng nghĩ đến chư thần tại địa phương như Sơn thần, thổ địa v.v… ám trợ cho mọi việc được thuận duyên, suôn sẻ. Việc ngài mong muốn được đáp ứng như sau:
- Đêm đó ngài mơ thấy vị sơn thần ngày nào cũng với vài ba vị khác nữa (thổ địa, thành hoàng) khăn áo chững chạc đến thăm, cùng ngài trò chuyện hứa là sẽ khiến cho có người giúp đỡ … và quả đúng như vậy:
- Nguyên ở vùng này có một đại đội công binh kiến tạo (của quân đội) đang thi hành các công tác trùng tu kiều lộ, chỉ huy trưởng đoàn công binh này là một quân nhân Phật tử tên VÂN, cấp bậc Đại úy – có lẽ do nơi sự xui khiến của sơn thần nên hôm đó vị sĩ quan ấy bỗng dưng lái xe JEEP tìm đến thăm Hòa thượng, thưa hỏi đạo lý và trình bạch lên một số chuyện riêng để cho ngài nguyện cầu giúp đỡ (Sau này các việc mà y cầu xin đều được thành tựu hết).
Trong khi trò chuyện, được biết ngài đang có ý định xây cất tu viện, người sĩ quan Phật tử này phát tâm thưa rằng:
- Bạch Thượng tọa, sẵn dịp Đại đội mà con chỉ huy đang có công tác kiến tạo trong vùng này, với khả năng trách nhiệm cùng với các phương tiện cơ giới sẵn có (như xe ủi đất, xe làm đường, xe cần trục v.v…) nếu như Thượng tọa cần đến thì con sẽ sẵn sàng và vui lòng giúp đỡ.
Hòa thượng rất mừng khi được nghe những lời đề nghị như vậy.
Và rồi các thời gian kế tiếp sau đó, cũng nhờ ở nơi người quân nhân Phật tử hữu tâm này, cho nên công việc dọn dẹp cây cỏ, ủi bằng phẳng đất đai, tạo lập đường sá, cầu cống cùng với các công trình xây cất khác đều được tiến triển khả quan (Con đường đất đỏ rộng rãi, cầu cống v.v…. Từ ngoài quốc lộ dẫn vào đến tu viện dài hơn 3 cây số đều do vị sĩ quan công binh này kiến tạo hết. Đây là lý do chánh khiến ngài cho dựng lên miếu thờ sơn thần và thổ địa ở gần nơi tịnh thất của ngài để cảm niệm công ơn đã khiến xui cho có người giúp đỡ).
Đến đầu năm 1971, tu viện được hoàn thành, thanh nhã, trang nghiêm, được Hòa thượng đặt tên là HƯƠNG NGHIÊM TỊNH VIỆN và ngài bắt đầu thành lập đạo tràng Tịnh Độ tại nơi đây để hoằng dương về Tịnh tông hầu nối tiếp công nghiệp Tịnh độ của các bậc đại sư xưa cùng báo đền ơn đức Tam Bảo.
Kể từ đó trở đi, nơi vùng “Phú An” thôn hoang sơ trước kia, đêm đêm những tiếng kinh kệ, mõ chuông(của chư tăng ni, Phật tử tu niệm tại tịnh thất) vang đều lên khắp chỗ, tiếng đại hồng chung và tiếng trống bát nhã của tu viện cúng đều đặn ngân lên trong những đêm dài, thanh âm hùng dũng vang tỏa khắp nơi, phá tan đi mọi vẻ tiêu điều lạnh lẽo của chốn núi rừng hơn một năm về trước, mang lại một niềm tin vững chắc và một sinh khí mới cho toàn thể Phật tử xa gần.
Đạo tràng Đại Ninh và Hương Nghiêm tịnh viện đã được thành hình, Pháp môn Tịnh Độ từ nay sẽ được chấn chỉnh lại và truyền lan khắp chốn. Hòa thượng Đại Ninh THÍCH THIỀN TÂM vừa mừng và cũng lại vừa lo. Bởi vì ngài biết chắc rằng trong những thời gian tới đây, đời mình sẽ còn phải chịu thêm nhiều nổi gian truân mới nữa.
Từ khi tu viện thành hình và đạo tràng đã được thành lập, Phật sự tại địa phương cũng đã được điều hòa rồi, vì muốn cho tông phong ngày thêm vinh chấn ngõ hầu khuyến khích đại chúng phát tâm dõng mãnh hơn trên bước đường tịnh độ nên một lần nữa Hòa thượng cùng với hai bạn đồng song là Hòa thượng Bửu Lai, Bửu Huệ, khai giảng một khóa tu tập “Tịnh độ chuyên biệt”, thuần túy dạy và thực hành riêng về giáo môn Tịnh Độ. Khóa học kéo dài gần đến 3 năm, đào tạo được nhiều vị tăng sư Tịnh Độ và khiến cho rất nhiều Phật tử khác phát khởi nguyện tâm, một lòng niệm Phật, cầu nguyện một đời đới nghiệp vãng sanh, lên ngôi bất thối, đông không kể xiết.
Các Phật tử tu theo Pháp môn Tịnh Độ nhưng vẫn còn ngờ vực trước kia, nay thảy đều tỏ ngộ được tông chỉ và chỗ quy hướng của Tịnh Tông nên họ rất vui mừng và phấn khởi (Quyển sách Niệm Phật Thập Yếu của ngài soạn ra trước kia nay lại càng được phổ cập hơn nữa và trở thành là một quyển sách gối đầu cho các người tu theo giáo môn Tịnh độ mãi cho đến bây giờ, trong quốc nội cũng như ngoài quốc ngoại). Mọi người đều hoan hỷ tán thán lên nói rằng:
- Từ đây, qua sự hoằng hóa về Tịnh tông của Vô nhất Đại sư Thích Thiền Tâm Hòa thượng, đóa sen lành Tịnh Độ đã tỏa ngát được hương thơm nơi vùng trời cao nguyên đất Việt và sẽ còn lan xa mãi cho đến về sau cùng đi đến tất cả những nơi nào mà ở đó đã và đang có các người con của Phật phát nguyện tâm quy hướng về nơi Cực lạc, dự vào chín phẩm sen vàng của miền An dưỡng.
Thanh danh của Hòa thượng Tông chủ Tịnh độ Đại Ninh Thích Thiền Tâm và đạo tràng Tịnh Độ của ngài một lần nữa được loan truyền khắp cả mọi nơi. Các bậc đại sư trong Phật học đường Nam Việt khi xưa (còn sót lại) như Hòa thượng Thích Thiện Hòa v.v... đều rất vui mừng và an ủi khi thấy Tịnh tông đã được trùng hưng, xứng hợp với căn cơ của tất cả mọi người.
Mặc dù được nhiều thanh danh và vinh dự như thế nhưng thâm tâm của ngài cũng chẳng lấy đó làm điều vinh danh hay phát ý vui mừng. Là một vị đại tăng đã từng trải lâu năm trong đường đạo, nên ngài cũng dư biết rằng sớm, muộn gì mình cũng không sao tránh khỏi được cái cảnh “trâu cột ghét trâu ăn” cùng với các sự tị hiềm, ganh ghét khác, bởi vì càng cao danh vọng thì càng nhiều gian nan, đó là lẽ thường, xưa nay vẫn vậy.
Hơn nữa, lúc nào ngài cũng nhớ nằm lòng bài kệ khi xưa của Bồ tát dạy:
“Tuy là có được chút ít thanh danh nhưng kèm theo đó cũng vẫn còn phải vương mang ít nhiều dư nghiệp” … vì vậy mà tâm của ngài lúc nào cũng vẫn điềm nhiên, lợt lạt đối với lợi danh cùng những lời khen chê phù phiếm, hão huyền.
Là một bậc thạc sư về Phật học, nên hơn ai và hơn bao giờ hết ngài biết rất rõ các lời Phật đã từng huyền ký lại trong kinh điển về tình trạng của người tu trong thời buổi mạt pháp sau này rằng:
- “Sau khi ta (Phật) nhập niết bàn rồi, tám trăm năm sau, hàng xuất gia phần nhiều tham trước danh lợi, giải đãi, buông lung (1), trong trăm ngàn người tu, chỉ có một ít người đắc đạo.
Chín trăm năm sau, trong giới tăng ni, phần nhiều là hạng nô tỳ hạ cấp bỏ tục xuất gia. Một ngàn năm sau, các tỳ kheo nghe nói pháp bất tịnh quán, pháp sổ tức, buồn chán không thích tu tập, trong trăm ngàn người tu chỉ có một ít người được vào chánh định. Từ đó về sau (2), lần lần hàng hàng xuất gia hủy phá giới luật, hoặc uống rượu, hoặc sát sanh, hoặc đem bán đồ vật của Tam bảo, hoặc làm hạnh bất tịnh, nếu có con trai thì cho làm tăng, con gái thì chi làm ni, chỉ còn có một số ít người biết giữ giới hạnh, gắng lo duy trì và hoằng dương chánh giáo.
Khi áo cà sa của chư Tăng ni biến thành sắc trắng, đó là triệu chứng của Phật giáo sắp diệt” … (Kinh Ma Ha Ma Da).
Ghi chú:
(1) Giải đãi, buông lung: Biếng nhác tu hành, không tuân theo lời Phật dạy, hủy phá giới luật trong đạo, chạy theo duyên đời chớ không chịu lo tu thân, tâm, giới huệ.
(2) Tức là 1000 năm sau khi Phật nhập niết bàn (bắt đầu thời kỳ mạt pháp) cho đến bây giờ.
Lại nữa trong kinh “Pháp Diệt Tận” Đức Thế tôn cũng có dạy rằng:
- “Về sau, khi pháp của ta sắp diệt, nơi cõi ngũ trược này, tà đạo nổi lên rất mạnh, lúc ấy có những quyến thuộc của ma trá hình vào làm sa môn để phá rối đạo pháp. Họ ăn mặc y phục như người thế gian, ưa thích áo cà sa ngũ sắc, ăn thịt uống rượu, sát sanh, tham đắm mùi vị, không có từ tâm tương trợ, lại ganh ghét lẫn nhau.
Bấy giờ các vị Bồ tát, Bích Chi, A La Hán vì bản nguyện hộ trì Phật pháp nên hiện thân ra đời làm bậc sa môn, các vị này tu hành tinh tấn, đạo hạnh trang nghiêm, được mọi người kính phục. Các vị ấy có đức thuần hậu, từ ái, nhẫn nhục, ôn hòa, giúp đỡ kẻ già yếu cô cùng, hằng đem kinh tượng khuyên người phụng thờ, đọc tụng, giáo hóa chúng sanh một cách bình đẳng, tu nhiều công đức, không quản ngại chi đến việc tổn mình, lợi người.
Khi có những vị sa môn đạo đức như thế, các Tỳ kheo ma kia ganh ghét, phỉ báng, vu cáo cho những điều xấu, dùng đủ cách lấn áp, xua đuổi, hạ nhục khiến cho các vị sa môn ấy không được ở yên.
Từ đó các ác Tỳ kheo kia càng lộng hành, không tu đạo hạnh, bỏ chùa chiền điêu tàn, hư phế, chỉ lo tích tụ tài sản riêng tư, làm các nghề không hợp pháp trong đạo để sinh sống, đốt phá rừng núi làm tổn hại chúng sanh không có chút từ tâm.
Lúc ấy có nhiều kẻ nô tỳ hạ tiện xuất gia làm tăng ni, họ không đạo đức, dâm dục, tham nhiễm, tăng ni, nam nữ sống chung lẫn lộn, Phật pháp suy vi chính là do bọn này.
Lại có kẻ trốn phép vua quan, lẫn vào cửa đạo, rồi sanh tâm biếng nhác không học, không tu. Đến kỳ tụng giới (bồ tát) trong mỗi nửa tháng, họ chỉ lơ là gắng gượng, không chịu chuyên chú lắng nghe. Nếu có giảng thuyết giới luật, họ lược trước, bỏ sau không chịu nói ra cho hết.
Nếu có đọc tụng kinh văn, họ không rành câu, chữ, không tìm hỏi nơi bậc cao minh, tự mãn cầu danh, cho mình là giỏi. Tuy thế, bề ngoài họ cũng làm ra vẻ đạo đức, thường hay nói phô (tự khoe mình) để hy vọng mọi người cúng dường.
Các Tỳ kheo ma này sau khi chết sẽ bị đọa vào địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh trải qua nhiều kiếp, khi đền tội xong, họ sẽ sanh vào làm người ở nơi biên địa, chỗ không có ngôi Tam bảo.
- Trong kinh “Đại Bảo Tích”, Phẩm Tam tụ luật nghi, Phật cũng có bảo cùng với ngài Ma Ha Ca Diếp rằng:
Đời vị lai có Tỳ kheo chúng,
Lòng vội vàng, nhiều giận nhiều hờn.
Bức não người chơn chánh xuất gia,
Đã phát tâm Bồ đề vô thượng.
Đây là hạng đáng kinh, đáng sợ,
Bài bác luôn kinh điển đại thừa.
Không có lòng lãnh thọ, kính tin,
Giáo pháp của Thích Ca Văn Phật.
Họ giận hờn cùng nhau ganh ghét,
Đối với nhau làm những khổ nàn.
Lại rêu rao bày lỗi của nhau,
Tiếng xấu xa truyền lan khắp chỗ.
Đem việc xấu cáo vu người khác,
Lỗi của mình thời thẹn giấu che.
Người hiền lành thế yếu, ít người,
Kẻ tà ác chúng đông thế mạnh.
Thấy như thế biết chánh pháp suy,
Nên người ác thêm nhiều thế lực.
Những đệ tử đáng thương của Phật,
Chính chi cho các Thiện Tỳ kheo.
Phải dắt nhau tìm chỗ, tìm nơi,
Lánh kẻ ác ở nơi an ổn” …
Do vì biết như vậy và bằng vào một thân tâm minh tịnh cùng với sự hiểu biết sâu xa do trí huệ phát sanh sau những năm dài nhập thất, tịnh tu nơi miền thanh vắng, ngài thấy rất rõ ràng rằng:
- Kể từ nay cuộc đời còn lại của ta ắt sẽ phải chịu thêm ít nhiều giông tố, sống gió nữa. Cái câu “Còn chút nghiệp phải mang” mà Phật dạy năm xưa, nay nó đã bắt đầu lố dạng lên, và le lói ở cuối chân trời rồi. (Và quả thật như vậy,sau đó ít lâu ngài bị không biết bao nhiêu là những sự bằm dập, nhục nhằn – khó tả cho hết được – cũng bắt nguồn từ các sự ganh tị, giành giựt uy tín, ảnh hưởng và lợi danh trong hàng môn đệ với nhau mà sanh ra hết).
Trong những khi rỗi rảnh, sau các thời khóa tịnh tu, ngài mới suy nghĩ cũng đem các lời Phật dạy ở trên để kiểm chứng lại hoàn cảnh hiện tại của Phật giáo và chính ngay nơi bản thân mình ở tại đạo tràng này trong mấy năm qua và ngài nhận thấy rằng:
- Kể từ khi tứ chúng vân tập về đây để nương theo mình tu học, mình cũng đã vì họ mà thành lập ra Tu viện và khai mở đạo tràng, hoằng hóa Tịnh tông. Thời gian qua, thanh danh của mình càng nổi bật bao nhiêu, càng được Phật tử quý kính bao nhiêu thì mình càng bị họ ganh ghét, vu cáo và phỉ báng bấy nhiêu, trước mặt mình thì họ dạ dạ, thưa thưa nhưng sau lưng thì họ lại không tiếc những lời rẻ khinh, mạ lỵ.
Ngài tự hỏi:
- Vì sao mà họ lại đối với ta tệ bạc như vậy. Trong khi ta là thầy dạy học cho họ và họ lại là đệ tử của ta?
Và rồi ngài cũng tự hiểu rằng:
- Sở dĩ họ đối với ta như thế là vì nếu có dìm ta xuống được thì họ mới nổi lên – chỉ đơn giản như vậy mà thôi chớ không có điều chi khác nữa.
Rồi ngài hồi tưởng lại khoảng thời gian mấy năm về trước khi ta còn đơn thân an ẩn tu hành, lúc đó ta an nhàn, thong thả và thanh tịnh bấy nhiêu, thì giờ đây ta bị bận rộn, ràng buộc bấy nhiêu. Danh mà chi, lợi làm gì, cung kính quý trọng hay hủy báng, khinh chê, hỏi để rồi có được ích lợi gì cho con đường giải thoát theo như sở nguyện của ta?
Ta đã từ bỏ hết các chức vị, vinh dự mà Giáo hội trao cho ta cùng với các sự cung kính, cúng dường từ nơi các hành Phật tử để về ẩn cư tu niệm tại miền rừng núi này rồi. Đời ta còn lại không lâu, ta nay đâu có cần chi trong vòng trần tục, lợi danh này nữa.
Ngài buồn lắm và ngài muốn bế quan, nhập thất trở lại như xưa qua ý của bài thơ sau:
Giấc hòe tỉnh ngẫm suy cuộc thế,
Bóng nguyệt ngân (1) đổ xế cành ngô.
Bồng tiên cảnh đẹp mơ hồ,
Niềm nhân sự ngẩn ngơ sanh khái cảm.
Tri âm ảnh tuyệt linh cầm đoạn,
Vân tự chung hồi lạc quốc du.
Lắng chuông khuya mà quyết chí tiềm tu,
Tưởng sen nở thiên thu miền Cực lạc.
Vùng ngũ trược cõi trời, người đổi khác,
Chưa vô sinh e dễ lạc mê trần.
Bâng khuâng bể giác non thần.
Liên Du, Vô Nhất.
Thích Thiền Tâm.
Ghi chú:
(1) Bóng nguyệt ngân: Ý nói ánh trăng trắng sáng cũng như màu bạc vậy.
(Để chư Phật tử, đạo hữu rõ thêm về ý nghĩa của bài thơ tuyệt vời này. Bảo Đăng tôi xin lược ý như sau:
- Câu 1và 2 ý nói: Nửa đêm thức giấc, ngồi yên một mình mà ngẫm nghĩ và suy xét lại về những lẽ thịnh, suy, thành, bại, v.v… của cuộc đời này (và của đời mình nữa), miên man chìm trong các sự ngẫm xét đó, đến chừng giật mình lại ngó ra ngoài sân thì ánh trăng bàng bạc đã xế bóng (tức là gần sáng) khỏi ngọn đông rồi (tức là cây ngô đồng).
- Câu 3 và 4 ý nói: Nhìn ra bên ngoài, từ các cây cối, hoa cỏ v.v... dưới ánh trăng khuya thanh vắng (như lòng ta thanh vắng) ảnh hiện ra vẻ đẹp mơ hồ như một cảnh thần tiên, rồi bỗng chợt nghĩ đến tình đời đen bạc, tình đạo (đời nay) chua cay, lòng tự nhiên thấy ngẩn ngơ và bùi ngùi cảm khái cho thế thái nhân tình.
- Câu 5 và 6 ý nói: Tất cả những gì làm bận lòng ta như các người quen, các ước vọng v.v… ta đã và sẽ chặt đứt cùng đập gãy hết. Lắng nghe tiếng chuông chùa từ xa vọng lại mà tưởng chừng như hồn mình đang bay về nơi Cực lạc cõi trời Tây.
- Câu 7 và 8 ý nói: Lắng nghe tiếng chuông khuya trầm bổng, thánh thoát vang lên như thế mà lòng ta càng thêm quyết chí niềm tu (ẩn tu). Mơ tưởng một ngày nào kia sẽ được theo Phật về miền Cực lạc dự vào trong chín phẩm tòa sen vàng.
- Câu 9 và 10 ý nói: Cõi ta bà đầy đủ ngũ trược (ác thế) này, tâm tính con người hung dữ, ác độc (quá)khác hẳn với tâm của các bậc chân tăng, hiền thánh khi xưa – Ta nay là phàm tăng chưa chứng đắc được (vô sinh nhẫn lực) nếu như không sớm nhập thất lại e sẽ dễ bị lạc luôn vào trong chốn mê trần. Càng nghĩ lòng càng thêm thấy bâng khuâng, muốn xả bỏ hết tất cả để nhập vào trong biến giác, non thần nơi Phật quốc mà thôi.
Do vì thấy, nghe, nhận chịu (nhiều nỗi nhục nhằn) và cảm nghĩ như thế cho nên vào cuối năm 1971, ngài mới tuyển chọn ra từ trong các học chủng (chư tăng đang nương ở tu học tại tu viện và trong đạo tràng) được vài vị tương đối “có tâm” hơn một chút, giao cho trách nhiệm trụ trì Hương Nghiêm Tịnh Viện và trông nom Tịnh thất Hương Quang để ngài bế quan, nhập thất tịnh tu trở lại (cho hợp với tâm nguyện của mình).
Kế tiếp sau đó ngài trở vào nhập thất lại tại Tịnh xứ Phương Liên.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét